Simulect.
Vừa nhìn thấy tên loại thuốc in trên vỏ hộp đằng sau lớp giấy gói quà, Irina tức khắc hiểu vì sao người đã gửi hộp quà này đến cho cô lại muốn dùng màu giấy đỏ chói để che nó đi. Chiếc nơ ruy băng xanh biển thắt vụng về chẳng ăn nhập gì với cả màu giấy đỏ lẫn không khí Giáng sinh đang dần đến, nhưng cô hiểu, đó là tất cả những gì anh có thể xoay xở được trong hoàn cảnh ấy rồi.
Cô mở nắp hộp thuốc. Bên trong chiếc hộp là một mớ những tờ giấy trắng gấp làm tư nằm hỗn độn, trên mỗi tờ giấy ghi một con số khác nhau. Hai mươi tư tờ, cô biết rõ mà thậm chí chẳng cần phải đếm. Hai mươi tư ngày nữa là Giáng sinh rồi. Cô lục tìm trong hộp tờ giấy ghi số 1, rồi cẩn thận mở ra. Một bức tranh nhỏ, nếu thứ ấy có thể gọi là tranh, với những vết bôi bẩn lung tung cùng những đường thẳng ngang dọc chằng chịt vẽ bằng bút chì nét đậm.
Thoạt tiên, cô chẳng hiểu anh muốn nói gì với cô thông qua bức tranh ấy. Nhưng rồi cô chớp mắt, và một hình ảnh mơ hồ bỗng hiện ra, lướt qua đầu óc cô rồi vụt tan đi mà không để cô bắt kịp. Cô nhắm mắt lại, nghiền ngẫm thêm một hồi, để tâm trí mình đuổi theo hình ảnh ấy – và cô đoán, chỉ đoán thôi, rằng những đường kẻ ngang dọc ấy trông hao hao giống cách cô bài trí đồ đạc trong phòng thí nghiệm của mình.
Cạch.
Tiếng cửa mở khoá như đã giết chết chút niềm hi vọng cuối cùng của cô.
Nếu không thể chạy thoát, thì hãy cố thủ trong phòng thí nghiệm và chờ mọi thứ qua đi. Đó là biện pháp ứng phó tiêu chuẩn. Còn nếu kẻ xâm nhập, bất kể là kẻ nào, đã vào được tận trong phòng, thì cả nhóm nghiên cứu của cô coi như xong đời rồi.
Irina cầm chặt khẩu súng gây mê đã lên đạn sẵn trên tay. Cuộn mình lại dưới gầm bàn, cô cố gắng thở khẽ, hơi thở nóng ran lên theo những giọt mồ hôi lấm tấm rỉ ra trên trán. Chắc chắn sẽ phải bắn, cô tự nhủ. Cái quy định không được mang vũ khí gây sát thương vào phòng thí nghiệm ở Điểm-54 chưa bao giờ vô ích đến thế này. Cô và đồng đội đã làm tất cả những điều mình làm được, trơn tru và khẩn trương y như khi diễn tập – cất giấu hết những mẫu vật và hoá chất quan trọng, để lại một số chướng ngại vật làm chỗ nguỵ trang, vần hết bàn ghế còn lại ra chặn cửa – nhưng như vậy có lẽ vẫn là không đủ. Nếu kẻ đột nhập đã có thể phá cửa hành lang, phá được cả khoá cửa phòng thí nghiệm, thì mấy bộ bàn ghế kia có lẽ cũng chỉ là trò trẻ con với chúng mà thôi.
Đừng sợ, đừng sợ. Mình có tận sáu người cơ mà. Hẳn là cũng không đến nỗi–
Ngoài cửa bỗng vang lên “ầm” một tiếng, theo sau là tiếng bước chân thình thịch giậm xuống nền đất, xen lẫn với mấy cái ghế đẩu ngã xuống lăn lông lốc dưới sàn. Chỉ có một tên thôi. Nhưng dù chỉ có một tên, và dù Irina không nghe rõ tiếng bước chân ấy hướng về phía nào, từng bước đi của kẻ nọ vẫn làm tim cô thêm tê tái – hướng nào cũng có nghiên cứu viên hay kĩ thuật viên đang ẩn nấp. Cô chỉ mong rằng sẽ không một ai bị lộ vị trí, dù khả năng ấy giờ đây chỉ là phần vạn phần nghìn. Tất cả những mảnh ghép của phòng thí nghiệm này đều quan trọng theo cách riêng của họ. Cô không thể nào để mất đi bất kì ai cả.
Nhưng rồi những tiếng thét không thể tránh khỏi vẫn xé toạc bầu không khí trong phòng. Irina rời chỗ nấp, hướng súng về phía kẻ đột nhập và bóp cò, vừa đúng lúc một loạt đạn gây mê khác từ tứ phía cũng rời nòng súng. Không cần ai phải ra lệnh cả. Nếu mọi sự đã ra đến nông nỗi này, thì chuyện tất cả thành viên của phòng thí nghiệm phải chết cùng nhau hoàn toàn có thể xảy ra. Vậy nên tất cả mọi người trong nhóm nghiên cứu của cô đều đã sớm nhất trí, rằng ngay khi có một người trong đội rơi vào nguy hiểm, bất cứ ai cũng phải gắng tìm đường sống cho đồng đội mà không được tiếc thân mình.
Loạt đạn gây mê dường như chẳng có tác dụng gì với kẻ vừa xâm nhập. Những viên đạn va phải từng tấm giáp sắt hoen gỉ bọc quanh cơ thể nó, rồi bật ngược lại, văng tứ tung trên sàn. Con quái vật dạng người cao gần đến trần nhà chẳng có vẻ gì là nao núng – nó vẫn đứng sừng sững, những ngón tay dài xương xẩu bóp chặt lấy quanh eo người kỹ thuật viên xấu số, mặc kệ anh gào thét mà nhấc bổng anh lên cao. Những mảnh giáp han gỉ bọc vá víu quanh thân mình nó, và những thanh sắt vụn tua tủa trồi lên ở hai vai.
Một loạt đạn gây mê nữa lại nổ ra từ nơi từng nghiên cứu viên đang ẩn nấp. Irina giương súng bắn theo, lần này nhắm cẩn thận hơn. Vài ba mũi tên từ loạt súng này đã cắm được vào da thịt con quái vật – nó nghiêng ngả thân mình, đôi bàn tay nới lỏng, thả rơi anh kỹ thuật viên từ trên cao rồi ngã gục xuống sàn. Đầu nó nghiêng về phía Irina – tới giờ cô mới nhìn thấy cái thứ ở nơi đáng lẽ ra là khuôn mặt nó, và thứ đó làm cô khiếp sợ.
Nhưng cô cũng chẳng có nổi thời gian để mà sợ nữa. Ba con quái vật giống y hệt nó lại lờ mờ xuất hiện bên ngoài cánh cửa, tiến thẳng về phía người kỹ thuật viên tội nghiệp kia. Irina không phân biệt được đó là do chúng ngửi thấy mùi máu, hay vì bằng một cách nào đó đồng loại của chúng đã báo cho chúng biết vị trí của anh. Một thoáng hốt hoảng trồi lên trong cô, nhưng rồi cô tự trấn an mình ngay – ít nhất thì lần này cả đội đều đã biết mình đang đối mặt với cái gì. Anh kỹ thuật viên bị thương, máu chảy bê bết nhưng vẫn gắng gượng bò trên sàn, vớ lấy khẩu súng hướng thẳng về phía ba con quái vật. Những loạt đạn gây mê lại xả tới tấp về phía chúng, có trúng có trượt, nhưng với những gì người ta có thể kì vọng ở một nhóm nghiên cứu viên cầm súng trên tay thì như vậy đã là không tệ lắm. Nhưng không tệ lại chỉ càng nghĩa là không đủ. Chỉ một trong ba con quái vật kia nằm gục xuống, trước khi tiếng súng hoàn toàn lặng im.
Hết đạn rồi. Cả sáu người hết đạn rồi.
Irina lẩn vào góc sâu nhất dưới gầm bàn. Bóng tối bủa vây quanh cô. Hai tay bó gối, cô gục xuống, nhắm mắt, miệng lẩm nhẩm những lời mà rất có thể là lời cuối. Cô chỉ biết xin lỗi, xin lỗi những người đồng đội đã vì sai lầm của cô mà phải chết cùng nhau. Cô gửi lời vĩnh biệt những người thân ở cách mình cả chục ngàn cây số, những người mà một cơ hội để họ được nghe lời chào vĩnh biệt của cô giờ cũng không còn…
Bùm!…
Một tiếng lựu đạn nổ bùng lên bên tai cô. Những cốc, những bình thuỷ tinh trong ngăn tủ dưới gầm bàn ngay cạnh cô đổ xuống, vỡ tan ra, kêu lên lách cách. Cô chẳng biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng cô muốn tin rằng âm thanh vật lộn ngoài kia nghĩa là có ai đó đã đến giúp đỡ mình. Mong là vậy. Ơn Trời. Khói và bụi cuộn lên trước mặt cô, làm cô phải nhắm mắt và ước rằng mình có thể thu nhỏ lại. Mọi thứ cứ như thế cho đến khi cô nghe tiếng “rầm” một cái, và tất cả lặng im.
Irina đẩy cửa, bước vào buồng bệnh. Căn buồng sáng loá dưới ánh đèn huỳnh quang, không khí trong buồng lẩn vẩn mùi thuốc sát trùng đậm đặc. Một người đàn ông trung niên cao to, da dẻ tái nhợt, thân thể chằng chịt bông băng đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, dòng dịch truyền cắm trên cổ tay anh chảy với tốc độ một phút sáu mươi giọt. Anh không cử động gì mà chỉ chằm chằm nhìn cô, ánh mắt có chút ngạc nhiên, nhưng phần nhiều hơn là tức giận.
“Xin lỗi cô, nhưng cho tôi hỏi, cô là ai? Có vẻ như tôi không quen biết cô.”
Vẻ giận dữ của anh làm cô phải đứng hình trong giây lát – thái độ ấy thật chẳng phù hợp chút nào đối với một bệnh nhân khi có người đến thăm nom. Cố gắng lấy lại vẻ bình thản, cô bước vào buồng.
“Tôi là Irina Vũ, nghiên cứu viên Sinh học Dị thường tại Điểm-54. Anh đã từng cứu mạng tôi và đồng đội của tôi không lâu về trước. Tình cờ được biết anh đang điều trị tại Điểm-DE12, lại có dịp đến công tác tại đây vài hôm, nên chí ít tôi cũng muốn gặp được anh một lần. Tôi hy vọng lời giới thiệu này có thể khiến anh nhớ ra điều gì đó về tôi.”
“Vậy xin cô thứ lỗi, cô Vũ, nếu tôi không nhầm. Nếu cô đã tới được tận đây để tìm tôi, chắc cô cũng phải biết rằng tôi là lính đặc nhiệm cơ động. Làm sao tôi có thể nhớ hết tất cả những người mình từng cứu mạng chứ. Hiện giờ tôi đang nghỉ ngơi, xin mời cô đi cho.”
Irina thở dài, rồi để giỏ hoa quả cô mang theo lên chiếc bàn bên giường bệnh. Dải ruy băng màu xanh lam buộc tấm thiệp chúc sức khoẻ vào quai giỏ rủ xuống, im lìm.
“Được, vậy thì xin chào anh. Nhưng trước khi tôi đi, tôi muốn gửi đến anh một lời cảm ơn và xin lỗi. Cảm ơn vì đã cứu mạng chúng tôi, tất nhiên rồi, và xin lỗi vì tôi và đồng đội của tôi chính là những người đã khiến anh rơi vào nông nỗi này.”
“Cảm ơn tấm lòng của cô. Nhưng từ giờ về sau, cô hãy quên tôi đi là tốt nhất.”
Irina lắc đầu.
“Chuyện này thì tôi không thể đồng ý được. Như tôi vừa tự giới thiệu đấy, Điểm-54 là nơi đặt phòng thí nghiệm của tôi. Có một tình huống mà tôi không bao giờ muốn mình gặp phải khi làm việc ở nơi này: khi mà vào một ngày nào đó, tôi lỡ quên đi bất kì ai trong số những người đã từng cứu mạng mình.”
“Anh gì ơi? Tôi hy vọng gọi bằng “anh” là đúng. Anh gì ơi? Anh có nghe thấy tôi nói không?”
Irina cúi xuống, lặp đi lặp lại câu nói ấy thêm vài lần, cố gắng phát âm cho thật rõ. Vừa trải qua cơn hoảng loạn, cô lo sợ rằng thứ tiếng Đức mình đang nói lẫn quá nhiều âm giọng nước ngoài, làm người lính bên trong bộ áo giáp kia không nghe ra nổi cô vừa nói điều gì.
Ở phía xa xa, mấy nhân viên y tế Điểm đang vội vã sơ cứu cho anh kỹ thuật viên nọ. Không ai thiệt mạng, chỉ có một người bị thương, như vậy đã là cả một kì tích. Bốn người đồng đội còn lại của Irina thẫn thờ ngồi bệt xuống đất ở bên kia bờ tường, bất đắc dĩ dõi theo cô nói chuyện với một trong năm cái xác bằng sắt thép nằm im lìm dưới đất. Từ nơi họ đang ngồi nhìn sang, trông năm cái xác ấy gần như chẳng khác gì nhau cả. Nếu không phải vì chiếc mũ bảo hộ của một bộ giáp trông khác hẳn cái đầu hình vuông kì dị của bốn cái xác kia, thì những con người ấy đã chẳng thể nhìn ra nổi kẻ nào mới là kẻ vừa cứu mạng mình.
Người lính trong bộ áo giáp kia ngước mắt nhìn xuyên qua tấm kính trên mũ. Anh khựng lại khi thấy cô nghiên cứu viên nhận ra mình còn tỉnh – và có lẽ, vì cô nhận ra anh là một con người. Anh thì thầm, đủ khẽ để cô nghe:
“Đi ngay. Đặc nhiệm không đến kịp đâu.”
“Anh nói gì cơ?”
Anh nặng nhọc nhấc một cánh tay bọc giáp, chỉ về phía bốn nghiên cứu viên còn lại.
“Cô nên đi khỏi đây. Đưa cả họ cùng đi nữa. Chúng vẫn chưa chết, tôi mới chỉ làm chúng bất tỉnh bằng thuốc mê. Tôi không được phép giết chúng. Chúng có thể tỉnh bất cứ lúc nào. Đặc nhiệm sẽ không đến kịp để đối phó với chúng đâu.”
“Được, nhưng anh đủ khoẻ để đi cùng chúng tôi chứ? Lực lượng y tế Điểm ở ngay ngoài kia, tôi sẽ gọi họ cho anh nếu cần.”
“Đừng lo cho tôi”, anh gắng sức nhấn mạnh, tay gõ gõ vào bộ giáp. “Cô cứ đi đi. Tôi phải ở lại đây làm mồi nhử. Hãy tin vào những đánh giá và chiến thuật của tôi, hãy tin vào thứ này.”
“Không được. Anh có áo giáp bảo vệ, hẳn là chấn thương của anh không nặng, chẳng có lý do gì mà Tổ Chức phải đánh mất nhân sự theo cách như thế này hết. Hơn nữa…”, cô phủi bụi trên một tấm giáp của anh, làm những cảm biến, những bộ máy liên lạc tinh xảo lộ ra, và mảnh giáp ấy bóng lên dưới ánh đèn hành lang mờ mờ. “…Tôi không biết thứ anh đang mặc là gì, nhưng nếu người ta đã để cho anh sử dụng nó, thì tôi có thể thấy anh là một nhân sự cực kì có giá trị của Tổ Chức. Không, nói vậy có lẽ vẫn là không đủ để miêu tả hết tầm quan trọng của anh. Đối với Tổ Chức, anh quá quý giá để đem thân mình làm mồi nhử theo cách này. Tôi nói có đúng không?”
Người lính lặng im một lúc lâu, nhưng rồi vẫn nhất quyết giơ tay từ chối.
“Không được, tôi phải ở lại. Một ngày nào đó cô sẽ hiểu được quyết định này của tôi. Còn bây giờ, nếu muốn giữ mạng thì cô hãy đi ngay đi!…”
“Vậy là họ đã sử dụng nội tạng của nhân sự Cấp-D để ghép cho anh.”
Trước hai tiếng “Cấp-D” mà Irina nhấn mạnh, ánh mắt người lính già ấy đổi sang vẻ tò mò.
“Cô có vẻ không hài lòng lắm với điều đó nhỉ.”
“Tôi biết nói gì đây? Dù sao thì sự cũng đã rồi.” Cô nghiên cứu viên mỉa mai. “Đây hẳn là một quyết định rất khó khăn từ phía Uỷ ban Đạo đức. Nhưng mà… ghép tạng thì vẫn là ghép tạng mà thôi.” Irina tự kìm mình lại để không nói ra những điều cô nghĩ. Thể chất của anh sẽ không bao giờ tốt như trước nữa. Mãi mãi không còn khả năng ra trận là nỗi đau lớn nhất của một chiến binh. Cô không cần phải day thêm vào nỗi đau ấy của anh.
Nhưng dường như anh đã hiểu ý cô.
“Tôi cũng chẳng biết người ta đã đạt được thứ họ mong đợi hay chưa, sau khi làm thế với một người tàn phế như tôi.”
Hai người im lặng một lúc lâu. Chẳng biết phải làm gì khác, Irina đành chuyển chủ đề.
“Tuyết bắt đầu rơi rồi đấy.”
Người lính già cũng hưởng ứng ngay. “Ở đây hay ở Điểm-54 của cô?”
“Ở đây. Chỗ này lạnh hơn Leipzig, và tuyết cũng rơi sớm hơn mà.”
“Vậy à. Cô nhắc tôi mới nhớ, cũng đã hàng bao nhiêu năm trời tôi không được nhìn thấy tuyết rồi. Cô biết đấy,” anh nhún vai, “Bộ giáp đó. Từ ngày khoác nó lên mình, bọn tôi không còn được phép tiếp xúc với thế giới bên ngoài.”
“Thế cơ đấy. Tội nghiệp các anh thật.”
“Nói ra thì cũng đâu thay đổi được gì. Hay là thế này đi,” anh nhích người lên một chút, “Cô hãy thử miêu tả cho tôi nghe xem tuyết năm nay trông ra sao đi nào.”
Ánh mắt cô nghiên cứu viên bỗng nhìn vào khoảng không vô định.
“…Trắng, tất nhiên rồi. Lá cây đã rụng sạch, ít nhất là với cây lá rộng, và tuyết thì đậu trắng những cành cây. Tôi vẫn luôn ngạc nhiên khi thấy những cành cây khẳng khiu mà lại vác trên mình được cả một tầng tuyết dày như thế. Mà thực ra thì tuyết luôn làm cho tôi kinh ngạc. Tôi cảm tưởng như ranh giới của mọi thứ đều có thể bị tuyết xoá nhoà đi ấy – như những toà nhà của Điểm-DE12 mà Tổ Chức mới xây nên chưa được bao lâu, đặt ngay cạnh những cánh rừng xa xưa ở Lüneburg này chẳng hạn. Khi ngắm tuyết, tôi luôn có cảm giác như mình lạc vào một thế giới khác, một thế giới hồng hoang chưa có dấu vết của bất cứ thứ gì.”
“Cô có vẻ thích tuyết một cách lạ thường đấy nhỉ.”
“Quả thực là như vậy. Tổ quốc tôi làm gì có tuyết đâu. Vậy nên đã bao lần đón mùa tuyết rồi, nhưng mỗi lần tuyết xuống, tôi vẫn luôn tò mò như một đứa trẻ.”
Cô không nhìn anh nữa. Vào khoảnh khắc ấy anh đã nghĩ, có lẽ cô đang ước rằng căn buồng bệnh này không nằm dưới lòng đất, rằng nơi này có một ô cửa sổ, nhỏ thôi cũng được, để cô được ngắm phong cảnh ngoài kia.
“Mà nghĩ kỹ ra thì, còn một điều nữa khiến cho tôi luôn ấn tượng với tuyết đấy. Số mùa tuyết tôi từng trải qua cũng là số năm tôi đã biết đến Tổ Chức này, là khoảng thời gian tôi sống một cuộc đời hoàn toàn khác biệt so với trước đây. Cái gì đã dẫn đến chuyện đó, làm sao tôi quên được chứ.”
“Và đó là chuyện gì?”
“Thực ra thì, đó cũng chẳng phải chuyện gì long trời lở đất cả. Dần dần tôi cũng quen với cách thức hoạt động của Tổ Chức thôi, và mãi về sau này tôi mới hiểu, loại chuyện ấy nếu không có ai làm lớn lên thì cũng chẳng hiếm lạ gì trong giới học thuật. Nhưng mà… Hay để tôi nói thế này đi: Đối với một đứa trẻ con mới bước vào đời, thì đó là một chuyện lớn. Anh cứ tưởng tượng xem. Ngày hôm trước tôi mới chỉ là một đứa con gái chẳng biết gì ngoài việc học, vậy mà ngày hôm sau tôi đã buộc phải trở thành một trong số những người giữ chặt lấy bí mật lớn nhất về thế giới này rồi. Học cách giữ những bí mật trong lòng và sống chung với chúng, cũng chẳng khác nào biến thành một đứa trẻ và học cách sống một cuộc đời khác lại từ đầu.”
Người lính già gật gù.
“Điều ấy cũng là tất yếu. Một khi cô đã là một phần của Tổ Chức này, thì hoặc là cô phải học cách sống với những bí mật, hoặc là cô sẽ tự mình biến thành một bí mật mà thôi. Cô đã ở đây bao lâu rồi?”
“Đến nay là năm thứ mười sáu. Nếu tuổi của tôi được tính bằng những mùa tuyết phủ, thì tôi mới chỉ vừa vào độ thiếu niên thôi.”
Irina vừa nói dứt câu, người lính đã cúi gục xuống, mặt nhăn nhó, hai tay ôm đầu.
“Anh sao vậy? Có cần tôi gọi bác sĩ không?”
“Không, không sao cả… Tôi chỉ đang nhớ đến con gái mình thôi mà. Phiền cô… Phiền cô cầm lấy quyển sổ tôi để trên bàn kia và giúp tôi ghi lại những lời tôi sắp kể. Các bác sĩ ở đây sẽ cần đến nó.”
Tuy chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng Irina vẫn vội vã làm theo. “Được rồi. Anh nói đi.”
“Tôi đang nhớ về ngày cuối cùng tôi được ở bên con bé, cũng là ngày cuối cùng trước khi tôi xa nhà để nhận nhiệm vụ này. Đó cũng là một ngày mùa đông giống như bây giờ vậy. Gần tới Mùa Vọng, và tuyết đã bắt đầu rơi. Tôi đã đi chơi chợ Giáng sinh cùng con bé, và con bé đã vòi vĩnh tôi mua cho nó một cuốn Adventskalender. Thường thì tôi chẳng chiều ý nó đâu, nhất là khi ngày đó gia đình tôi còn đang vỡ nợ–”
Càng nói, anh dường như càng líu cả lưỡi lại. Ngòi bút của cô đành phải khựng lại giữa chừng.
“Khoan đã, thứ mà con gái anh muốn mua– Là Adventskalender, đúng chứ?”
“Chính là nó đấy. Một kiểu lịch đón Giáng sinh dành cho trẻ em.”
“Tôi biết thứ đó mà. Tôi chỉ muốn đảm bảo rằng mình không nghe nhầm thôi. Anh cứ nói tiếp đi.”
“Nếu tôi chiều theo ý nó, thì tôi sẽ đích thực là chẳng còn xu nào dính túi. Nhưng sau ngày hôm ấy, tôi cũng sẽ chẳng thể gặp lại được con bé thêm một lần nào nữa, nên tôi còn gì để mất đâu? Sau ngày tôi ra đi, Tổ Chức sẽ thông báo rằng tôi đã hy sinh trên chiến trường, sẽ trả tiền bồi thường cho “cái chết” của tôi và nuôi con gái tôi đến lúc nó trưởng thành. Mọi vấn đề của gia đình tôi như thế là sẽ được giải quyết hết.”
“Thế là tôi mua cho nó cuốn lịch mà nó muốn, cuốn đẹp nhất bày trên quầy hàng.”
“Mà đó cũng là ý hay đấy chứ. Mỗi ngày, con bé lại mở thêm một ô trên cuốn lịch, và nhận được một món quà mới. Cứ như thế hai mươi tư ngày liền trước Đêm Thánh. Nó hẳn là đã cảm thấy rằng tôi luôn nhớ đến nó mỗi ngày, kể cả sau cái ngày mà tôi đã ra đi.”
Anh ngập ngừng một lúc.
“Đã bao lâu rồi? Năm nay… Hình như năm nay con bé cũng mười sáu tuổi.”
Chưa kịp đợi cô nói ra thắc mắc của mình về hai chữ “hình như”, anh đã nói liến thoắng một hồi, như thể không kìm nén nổi nữa:
“Dạo này tôi hay nhớ về những gì đã xảy ra trong quá khứ, những điều mà bằng cách này hay cách khác tôi đã quên. Những ký ức đó cứ đột ngột xuất hiện trong đầu tôi mỗi khi có cái gì đó gợi cho tôi nhớ đến chúng, dù là nhỏ nhất. Tôi có cảm giác như thể những ký ức ấy vẫn luôn ở đó, vẫn chiếm chỗ trong đầu óc tôi, nhưng tôi không biết rằng chúng ở đó vậy… Như những đồ đạc phủ bụi trong một cái kho tối om mà chẳng bao giờ có ai động đến… Nhưng cũng những ký ức ấy, mỗi khi nhớ đến chúng, tôi lại luôn cảm thấy như thể có ai đó đã mổ não tôi ra và nhét chúng như nhét những thước phim vào đầu tôi, chứ chúng vốn không hề tồn tại. Chúng xa lạ và khó chịu và vướng víu và dường như không thuộc về tôi. Cứ như thể người xuất hiện trong những ký ức đó không phải là tôi.”
“Anh đã thế này bao lâu rồi?”
Người lính già ra hiệu cho cô ngừng ghi chép.
“Ngay từ sau lần đầu tiên tôi gặp cô. Từ sau khi… khi mà tôi không được phép, mà cũng không thể dùng bộ giáp ấy thêm bất cứ lần nào nữa.”
Rồi anh lại ngồi thẳng dậy, nét mặt giãn ra và bàn tay phải xoa xoa bên thái dương, như thể cơn đau ấy đã dịu đi.
“Anh nghĩ hai chuyện này có liên quan chứ?”
“Không chỉ mình cô nghĩ vậy đâu. Những người xung quanh tôi đều biết cả rồi.”
“Vậy mà không ai có thể giúp đỡ anh sao? Y tế Điểm chẳng hạn? Hay là bộ phận tâm lý, tôi chắc rằng Điểm-DE12 phải có phòng ban này đúng không?”
Trái với vẻ sốt sắng của cô, anh giờ đã lấy lại vẻ bình thản như không.
“Tôi đã tới gặp họ rồi. Nhưng sau khi tất cả các bên bàn bạc, phương án tốt nhất hoá ra lại là để mặc tôi dưỡng thương ở đây và quan sát.”
“Hoá ra đó là lý do họ yêu cầu anh ghi lại hết những chuyện này sao?…”
Anh ngừng lại một hồi, nhìn ngắm vẻ mặt khó hiểu của Irina.
“Có lẽ tôi nên giải thích thêm cho cô nhỉ. Sử dụng bộ giáp đó hàng ngày gây ảnh hưởng lên chúng tôi thế nào, điều đó họ đã kết luận được từ lâu. Nhưng có một điều mà họ còn chưa biết: Chuyện gì sẽ xảy ra với đầu óc của những người lính chúng tôi, nếu như chúng tôi bị buộc phải rời xa nó.”
“Tức là nói theo cách khác, thì việc anh buộc phải về hưu sớm đã mở ra một câu hỏi nghiên cứu mới cho đội ngũ chế tạo ra bộ giáp của anh?”
Anh gật đầu.
“Tổn thương của người này là cơ hội thăng tiến của người kia. Cô đang nghĩ vậy phải không? Yên tâm đi, tôi thì lại chẳng có vấn đề gì với việc đó cả. Nghe thì bạc bẽo thật đấy, nhưng về lý mà nói, bắt lấy một cơ hội như thế còn là điều đúng đắn mà họ phải làm. Vậy còn hơn là để cho tôi sống tiếp sau tất cả những chuyện ấy, nhưng sống như một người vô dụng.”
Tiếng thông báo thư điện tử mới nảy lên từ chiếc máy tính để bàn trong phòng làm việc của Irina. Bản báo cáo tổng hợp về vụ vi phạm quản thúc lần trước, cuối cùng nó cũng đã đến tay các phòng ban rồi.
Irina mở tệp tin ra, và ập vào mắt cô là tới hàng mấy trăm trang báo cáo. Mất cả một tháng trời để người ta tổng hợp những thông tin này lại, và đây mới chỉ là những gì phù hợp với quyền hạn an ninh của cô – vụ vi phạm quản thúc lần này thật sự hơn xa một vụ việc tầm thường. Cô nhanh chóng lướt qua những trang văn bản, tìm kiếm phần tổng hợp thiệt hại từ phòng ban của mình – và cô sửng sốt khi phần nội dung nói về cả phòng ban, cả một dãy phòng thí nghiệm tương tự như đơn vị của cô, chỉ chiếm có độc một trang A4. Phần lớn những nội dung ấy lại chỉ là tóm tắt những gì cô đã tường trình, hay đã được thấy trước trong bản báo cáo mà Phòng ban Sinh học Dị thường gửi lên Ban Quản trị Điểm. Đọc kĩ một hồi lâu, cô cũng chỉ thấy được thêm vỏn vẹn một vài câu văn xa lạ:
“Việc SCP-4856 xuất hiện với số lượng lớn ở Cánh Tây, bên ngoài khu vực quản thúc được quy định, đã gây ra rối loạn diện rộng tại đây khi các lực lượng thường trực đủ khả năng ứng phó với dị thể này tại Điểm-54 bị dàn trải quá mỏng. Ban Quản trị Điểm-54 đã liên lạc với các Điểm thuộc chi nhánh Đức của Tổ Chức SCP để yêu cầu tiếp viện bổ sung ở mức độ cao nhất. Theo đó, Điểm-DE12 đã cử ĐĐNCĐ DE4-𝔙 “Kẻ Phòng Thủ” tới Điểm-54; các đơn vị của ĐĐNCĐ này đã được chia nhỏ và chiến đấu tại nhiều khu vực khác nhau của Điểm. Thương vong mà ĐĐNCĐ DE4-𝔙 gánh chịu bao gồm một thành viên bị loại khỏi vòng chiến đấu ở khu vực phòng thí nghiệm của Phòng ban Sinh học Dị thường,…”
Cô lướt chuột máy tính qua những cái tên, mong đợi tìm kiếm được một lời giải thích nào đó. Thế nhưng, những cụm chữ cái “SCP-4856” và “ĐĐNCĐ DE4-𝔙” lại không sáng lên – tài liệu về những đơn vị này nằm ngoài quyền hạn truy cập của cô. Cô lắc đầu, thở dài, bực bội vô cùng. Suốt cả tháng nay, cô đã không ngừng thắc mắc cái thứ quái quỷ suýt khiến cô bỏ mạng cùng đồng đội là gì, hay ai là người đã cứu mạng cô – nhưng đến khi cô có quyền được biết, thì câu trả lời chính thức dành cho cô lại chỉ có thế.
Cô thoáng bực bội, nhưng cũng chẳng ngạc nhiên. Có lý do để một thông tin nào đó phải được đặt bên ngoài quyền hạn an ninh của cô, hay của bất cứ nhân sự nào tại Tổ Chức này — vì cô không nên quan tâm đến chúng. Những sự thật xấu xí mà nếu như cô biết, có thể chúng sẽ chỉ càng làm hại đến cô. Những bí mật mà Tổ Chức này cho rằng cô không cần phải biết, vì biết chúng, nghĩ về chúng sẽ chỉ càng khiến cô thêm nặng lòng.
Nhưng ngay cả những hàng rào nghiêm ngặt nhất cũng đâu thể ngăn chặn nổi người ta, một khi họ đã tò mò về số phận của chính mình?
Cái thứ đã làm cô kinh hãi ở nơi đáng lẽ ra phải là gương mặt của những con quỷ ấy. Bất cứ tính chất gì của những thực thể này, SCP-4856, khiến cho ngay cả lực lượng an ninh hùng hậu của Điểm-54 cũng không đủ sức mà chống đỡ nổi. Lý do Điểm-DE12 coi đội đặc nhiệm DE4-𝔙 này là biện pháp ứng phó thảm hoạ tối ưu, và hai chi nhánh với quân lực cực kỳ lớn mạnh của Tổ Chức phải tác chiến cùng nhau. Lý do người lính đặc nhiệm cứu viện ấy không được giết chết những con quỷ kia. Bản chất bộ áo giáp của anh, lý do anh tin tưởng nó nhiều đến thế, và lý do anh chọn đem thân mình làm mồi nhử.
Những chuyện xảy ra sau khi cô và đồng đội rời đi, khiến cho anh từ chỗ chỉ bị thương nhẹ mà đã thành bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Ngày hôm ấy, có chuyện gì đó khủng khiếp hơn điều cô dự đoán đã xảy ra, mà chính cô cũng không nên được biết.
Và bất kể ngày hôm đó người lính ấy đã làm gì, thì anh cũng đã cứu cô và năm người đồng đội khỏi một số phận kinh hoàng.
“Câu chuyện mà anh vừa kể làm tôi nhớ đến một điều.” Irina đóng nắp bút lại, đặt quyển sổ về chỗ cũ trên bàn. “Dù rằng mảng kiến thức này không thuộc về chuyên ngành tôi nghiên cứu, nhưng trong sinh học, cụ thể là lĩnh vực tập tính học, có một khái niệm mà người ta gọi là “hành vi vị tha”.”
“Xin lỗi cô, nhưng tôi chưa hiểu?”
“Đó là khi một cá thể động vật sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình, để cho nhiều cá thể khác có vốn gen gần với nó tăng cơ hội sống sót. Giống như khi một con vật phát hiện ra kẻ săn mồi và kêu lên để báo hiệu cho những anh chị em trong cùng bầy biết, dù rằng khi nó kêu lên như vậy, nó biết kẻ săn mồi chắc chắn sẽ nhắm đến nó đầu tiên.”
“Cũng tương tự như khi anh sẵn sàng chết đi, dù là giả hay thật, để giải quyết hết những vấn đề của gia đình mình.”
“Hành vi ấy có thể không giúp cho chính cá thể hành động vị tha được sống sót, nhưng nó được duy trì vì nó vẫn có ý nghĩa tiến hoá. Nếu một cá thể chết đi mà nhiều họ hàng của nó được sống, thì suy cho cùng, cá thể ấy vẫn làm tăng thêm khả năng vốn gen của mình tiếp tục được truyền lại cho những đời sau. Vậy cho nên, đối với những cá thể vị tha kia, những cá thể được bảo vệ càng là họ hàng gần thì chúng càng sẵn sàng hi sinh khả năng sống sót của mình.”
“Còn nếu như những cá thể được cứu đều hoàn toàn xa lạ, thì lợi ích tiến hoá đó sẽ là không đáng kể.”
“Anh đã nói với tôi rằng khi ấy, lúc anh yêu cầu chúng tôi nhanh chóng rời đi, để lại một mình anh làm mồi nhử, đó là một quyết định chỉ đến từ suy tính chiến thuật. Tôi biết chắc một điều là vào khoảnh khắc ấy, anh có nhiều dữ liệu để phân tích hơn tôi. Nhưng khi mà anh đã biết rõ giá trị của mình với Tổ Chức, vậy mà anh vẫn lựa chọn hi sinh bản thân để cả sáu người xa lạ là chúng tôi được sống… Tôi không thể nào tin rằng quyết định đó của anh chỉ mang tính lý trí hoàn toàn.”
Anh hướng mắt về phía căn phòng khi nãy còn vang lên tiếng súng. Camera tầm nhiệt gắn trên mũ anh đã quét trọn một vòng căn phòng ấy, trước cả khi anh kịp bước qua ngưỡng cửa. Có sáu đốm màu vàng và đỏ hiện lên trong tầm nhìn của anh.
Trí tuệ nhân tạo gắn trên bộ áo giáp đã lục tìm trong cơ sở dữ liệu để giúp anh nhận diện đối thủ. SCP-4856, dị thể dạng người kích thước lớn với hành vi nổi bật là ăn nội tạng; để thoả mãn được nó, mỗi lần cho ăn, người ta phải hi sinh ít nhất một xác người. Khả năng phản công rất tốt, theo một cơ chế đặc biệt. Không được tiêu diệt, chỉ được làm bất tỉnh. Có bốn thực thể như thế đã xuất hiện trong căn phòng này, hai trong số chúng đã ngã xuống, nhưng cũng sẽ chẳng nằm yên được bao lâu.
Để áp đảo được chúng, anh cần thêm yểm trợ. Đồng đội anh ở quá xa, không thể đến kịp trước khi anh và chúng bước vào giao chiến.
Nhưng trùng hợp thay, ngoài chúng ra, anh lại phát hiện thấy tới sáu người tay không tấc sắt ở bên trong căn phòng này.
Máy tính phân tích đã gợi ý cho anh những nước đi tốt nhất. Những con quái vật kia sẽ phản ứng kém hơn khi đang tập trung đánh chén con mồi, cộng thêm một khoảng thời gian ngắn ngay sau đó. Đó sẽ là lúc thích hợp để anh tạm thời đánh cho chúng bất tỉnh, cầm chân chúng, đợi đồng đội đến và xử lý nốt phần việc còn lại.
Trí tuệ nhân tạo trong bộ giáp hỏi anh có muốn làm theo phương án đó hay không. Nhưng anh lờ nó đi, giật tung chốt một quả lựu đạn gây mê trên tay, và ném.
Lũ quái vật lồm cồm bò dậy. Người lính đặc nhiệm ấy đã dùng hết số đạn dược gây mê của mình, nhưng cũng không đủ để chúng bất tỉnh được bao lâu.
Ít nhất họ còn rời đi. Ít nhất cô ta còn nghe lời mình. Ý nghĩ ấy thoáng qua đầu óc anh, trước khi anh xông vào đánh giáp lá cà với chúng. Nếu cứ thẳng tay mà giết chúng, thì việc ấy dường như cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng anh không được giết chúng, trí tuệ nhân tạo trong bộ giáp cảnh báo anh thêm lần nữa. Một chiến binh như anh, được chế tạo ra để chém giết, với một công cụ vô cùng mạnh mẽ như bộ giáp này, nhưng lại phải kiềm chế và không được phép tiêu diệt kẻ địch đến cùng? Nhiệm vụ này đối với anh thật khó khăn và kì quái làm sao.
Những con quái vật đã đứng thẳng dậy, quay mặt về phía anh để đối đầu. Nhưng ngay khi nhìn thấy thứ ở nơi đáng lẽ ra phải là khuôn mặt chúng, có một cái gì đó đã khiến anh không thể hành động như anh dự định. Một cảm giác ư? Có phải vậy không? Nhưng đó là cảm giác gì mà lại khiến anh bỗng dưng dừng lại như thế này?
Không thể nào. Chuyện đó sẽ không thể xảy ra với anh được. Anh cố gắng gạt bỏ những ý nghĩ ấy đi và xông lên. Mà càng cố chối bỏ nó, anh lại càng thấy mình hung hăng đến lạ. Anh lao thẳng tới chúng, đánh đấm không ngừng tay, như thể anh muốn trút lên chúng những điều đang dần hiện lên trong đầu óc mình mà anh còn chẳng biết là gì. Anh nã đòn vào tay, vào chân chúng, chúng đem những cánh tay thô kệch ôm lấy thân mình anh. Anh lột phăng những mảnh giáp phủ trên người chúng, chúng cũng luồn những ngón tay xác chết dài lêu nghêu vào những khe giáp trên người anh, cố gắng cạy cho bộ giáp ấy rời ra dù là vô vọng. Chúng bám riết lấy anh như những con đỉa đói ham mồi, cố moi móc vào trong, chạm vào cái phần da thịt mà chúng vẫn thèm muốn từ trong bản chất…
Sức anh đuối dần. Và rồi khi cả bốn con quái vật ấy đã bám riết lấy người anh, anh cũng chẳng còn đủ sức để mà gắng kéo đứt từng con ra. Được đà lấn tới, chúng thò tay cạy, móc hết tay vào những khe hở trên bộ giáp rồi kéo ra, làm thịt xương anh căng lên như thể gần rách toạc. Một mảnh giáp rơi ra, và khi lũ quái vật rỉ sét đã tìm ra cách thức đánh bại thứ công nghệ tối tân ấy, thì từng mảnh giáp cứ rụng xuống dần dần, dần dần…
Tiếng đồng đội anh vang lên trong bộ đàm, báo rằng họ đã sắp đến nơi. Rồi bộ đàm cũng im phăng phắc.
Bộ giáp đã hỏng rồi. Không còn thứ gì bảo vệ tâm trí anh được nữa.
Đầu óc anh quay cuồng chao đảo, làm anh ngã quỵ xuống sàn. Những con quái vật châu đầu lại, vật anh nằm lăn ra đất, giương móng tay lên, cào xé, moi móc trong bụng anh. Đau, đau đến nỗi anh không thể kêu lên thành tiếng. Máu tươi của anh trào ra, đỏ chói, ồng ộc, phủ một tầng ấm nóng lên cái cơ thể mỗi lúc một lạnh lẽo dần.
Anh lịm đi, và trước khi dòng ý thức của anh tắt hẳn, anh ước gì mình sẽ không bao giờ tỉnh lại.
“Cô đã được biết những gì về vụ vi phạm quản thúc đó rồi?”
“Không nhiều, nhưng đủ để tôi tìm ra được rằng anh đang dưỡng thương ở đây.”
“Quyền hạn an ninh của cô ở cấp độ nào?”
“Cấp 3, có giới hạn.”
Người lính già khẽ cựa mình.
“Vậy thì tốt. Cô có đủ quyền hạn an ninh để tôi tiết lộ những gì cần thiết, và đủ khả năng suy luận để tự hiểu được tất cả những điều còn lại. Về sự thật mà cô vẫn luôn muốn biết trong những ngày này.”
Irina nhìn anh, chăm chú.
“Nếu anh muốn nói, tôi sẵn sàng lắng nghe.”
“Đầu tiên là về thứ mà suýt nữa đã giết chết tất cả chúng ta. Cô biết nó là gì chứ?”
“Tôi biết số hiệu của nó.”
“Những con quái vật khát máu điển hình. Nhưng nếu chúng chỉ có vậy mà thôi, thì đã chẳng có gì đáng nói về chúng cả. Năng lực đặc biệt nhất của chúng, cũng là thứ khiến người ta phải đau đầu nhất, đó chính là khả năng du hành thời gian. Chúng thường hay xuất hiện theo bầy, nhưng thực chất tất cả chúng đều là một, chỉ là thực thể ấy đến từ những thời điểm khác nhau trong dòng thời gian mà thôi.”
“Tức là…”, cô tròn mắt. “Điều đó khiến cho nó có thể xuất hiện ở nhiều nơi cùng lúc và gần như vô hạn định. Nó đã lợi dụng khả năng này để phân tán lực lượng an ninh của Điểm-54. Đó là lý do việc tái quản thúc nó lại khó khăn đến thế.”
“Còn một lý do nữa. Nó là dị thể thời gian, và cô có nhớ ngày đó tôi đã nói gì với cô không? Tôi không được phép giết nó.”
“Bởi vì nếu như nó chết, nó sẽ gây ra xáo trộn lớn trong dòng thời gian, và rất có thể là cả những nghịch lý. Ở Điểm-54, tôi có quen biết một vài nghiên cứu viên làm việc với dị thể thời gian. Có người thích, có người không thích làm việc với những nghịch lý, nhưng không một ai trong số họ dám coi thường độ khó của những vấn đề liên quan đến chúng.”
Người lính không đáp lời, chỉ lặng yên nhìn Irina lẩm nhẩm nói và đếm cái gì đó trên đầu ngón tay.
“Anh này, tôi cảm thấy… So với những dị thể dạng người thù địch bình thường, thì cái cách mà SCP-4856 hoạt động trong lần vi phạm quản thúc này rất bài bản. Chúng biết tận dụng lợi thế của mình, biết kết hợp với nhau trên cả một địa bàn rộng, và chúng biết Tổ Chức sẽ phản ứng ra sao. Thật là nguy hiểm.”
“Nó là một sinh vật bậc cao rất thông minh. Người trong ngành của cô thường sẽ nói như vậy nhỉ. Vậy thì ta có thể khẳng định rằng đợt tấn công lần này của nó là có chủ đích. Nhưng cô có biết nó làm như vậy là vì sao không?”
Cô nghiên cứu viên chau mày khó hiểu trước câu hỏi ấy.
“Tôi mới chỉ giáp mặt nó đúng một lần, và đến hồ sơ của nó còn chưa được đọc. Làm sao mà tôi biết được?”
“Lúc ấy tôi đã cầm chân chúng thành công, nhưng một yếu tố bất ngờ đã làm tôi phải trả giá. Trả giá bằng cách ước gì tôi có thể chết đi bất cứ lúc nào.”
“Chuyện đó thì liên quan gì đến nguyên nhân thực thể kia làm như vậy?”
Người lính già đáp lại cô bằng một câu hỏi ngược.
“Cô có nhận xét gì về vẻ bề ngoài của nó?”
Trước mặt anh, cô nghiên cứu viên bỗng trở nên hốt hoảng. Cô không nói gì mà chỉ hướng mắt lên trần nhà, nơm nớp lo sợ nhìn ra bốn phía.
“Trong phòng không có camera đâu. Không có ai nghe lén cả. Việc theo dõi tôi cũng chẳng hệ trọng đến nỗi lúc nào họ cũng phải kè kè bên cạnh tôi đâu. Cô hãy nói ra hết những điều mình nghĩ, không phải sợ gì hết.”
Irina biết mình không thể tin anh hoàn toàn. Nhưng nếu cô không nói gì, thì sẽ chẳng bao giờ có người nào khác lý giải những thắc mắc ấy cho cô.
“Tổ… Tổ Chức…”
Người lính chẳng ngại ngùng gì, mà nói thẳng tuột ra những điều mà cô đang nghĩ.
“Thứ in trên mặt nó là phù hiệu của Tổ Chức. Và trông hình dạng của nó cũng tương tự như thể nó đang mặc một bộ giáp, phải không?”
Đáp lại, Irina thì thầm khe khẽ, như thể cô cũng không thể tin vào chính đầu óc mình.
“Hoá ra tôi đã thực sự đoán đúng rằng ai là kẻ tạo ra thứ này.”
Nghe thấy thế, người lính già lại bật cười một tiếng.
“Thế đấy. Cùng một nguồn gốc, cùng một dáng hình. Vậy mà người ta coi Đội Đặc nhiệm của tôi như những anh hùng, nhưng lại xem con quái vật kia như quỷ dữ. Giữa chúng tôi và nó có gì khác biệt đây?”
“Nếu xét từ góc độ lợi ích,” Irina thầm nghĩ, không dám nói thành lời. “Các anh là những cỗ máy chiến tranh cho Tổ Chức, còn chúng thì ngược lại.”
Nhưng ý nghĩ của cô chưa kịp dứt, thì anh như đã nói thay cô.
“Rất đơn giản thế này thôi. Bộ áo giáp của chúng tôi, Tổ Chức đã thuộc nằm lòng cách làm ra nó. Họ nắm giữ công nghệ sản xuất từ đầu đến cuối, họ kiểm soát được chúng tôi trong tay, họ biết cách để biến chúng tôi từ những người lính bình thường thành những cỗ máy mà họ gọi là anh hùng. Còn con quái vật đó thì… Người ta chỉ biết nó xuất hiện lần đầu từ bao giờ, nhưng chẳng ai biết chuyện quái quỷ gì đã xảy ra trong phòng thí nghiệm khiến cho nó hiện diện trên đời này cả. Nó là kết quả của những thử nghiệm thất bại, và người ta chẳng biết gì về nó. Người ta sợ hãi nó. Và rồi người ta lại để tôi và nó phải chĩa mũi súng vào nhau.”
“Và cô biết còn điều gì khác mà họ chưa hiểu, chưa biết về những cỗ máy chiến tranh mà chính họ đã tạo ra không? Họ không biết những cỗ máy ấy một khi đã hỏng, đã tàn phế thì sẽ thành ra thế nào. Họ có thừa khả năng để tìm hiểu. Vấn đề ở đây chỉ là họ muốn hiểu chúng tôi đến đâu. Và tin tôi đi, rất có thể họ sẽ không có nhiều lòng kiên nhẫn đến thế.”
“Nếu họ có thể đối xử với chúng khác đi, thì có lẽ mọi chuyện đã không đến nông nỗi này.”
Nói đoạn, anh thở dài, rồi nhìn vào vô định. Irina cảm tưởng rằng nếu như lúc ấy trong tay anh có một điếu thuốc, anh sẽ châm lửa đốt nó và để làn khói xua tan những suy tư của anh đi.
“Thứ đã xuất hiện trong đầu óc tôi ngày hôm đó, không gì khác, chính là nỗi sợ. Tôi không sợ kẻ thù. Đồng loại của mình thì chẳng có gì mà phải sợ. Tôi chỉ sợ ngày tôi trở về, sau tất cả những lần hiến dâng máu xương không biết mệt, người ta lại chỉ coi tôi như một món đồ thừa vô dụng, di chứng của một thất bại, một con quái vật không cách nào giải mã mà họ chỉ biết chăm chăm nhìn vào mà thôi. Vậy cho nên–”
“Đến lúc chết đi, tôi vẫn sẽ nhớ những lời ngày hôm nay cô nói – cô muốn mãi mãi nhớ đến tôi như người đã cứu mạng mình, và chỉ có vậy. Đó sẽ là một niềm an ủi của tôi trong những ngày còn lại trên cõi đời này. Nhưng chỉ là một niềm an ủi.”
“Bởi vì suy cho cùng, sự giải thoát tốt nhất dành cho một người lính là được chết trên chiến trường. Vì tất cả những chuyện sau đó đều là việc của người còn sống.”
Giáng sinh đã đến rồi. Đêm Thánh năm nào cũng là một đêm im lặng. Dù phòng ký túc chỉ có một mình cô, một con người còn chẳng thuộc về những phong tục này, bầu không khí ấm áp hiếm hoi ở khắp nơi trong Điểm-54 vẫn làm cô thấy lòng mình bớt đi chút gì lạnh giá. Có lẽ mọi người đều đang như thế cả, đều đắm chìm vào không khí mùa lễ hội, tạm quên đi những sóng gió khôn lường mà dường như mới chỉ ập đến ngày hôm qua. Mà cũng có khi, những sóng gió ấy chỉ có một mình cô còn nhớ.
Irina thắp lên một ngọn nến, rồi nhìn vào chiếc hộp nhỏ bé nơi góc bàn. Cô vươn tay, nhặt lấy tờ giấy trắng duy nhất còn trong hộp. Và như thường lệ, cô chậm rãi mở nó ra như một nghi lễ thiêng liêng.