
Một quần thể Lycoris radiata tự nhiên ở Nhật Bản.
Quy trình Quản thúc Đặc biệt: SCP-030-VN hiện được phân loại quản thúc Conscientia.1 Tổ Chức cần triển khai đồng bộ các biện pháp gây sai lệch thông tin trên những lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, khám phá lịch sử và văn hoá đại chúng nhằm:
- Ngăn chặn cộng đồng khoa học bên ngoài Bức Màn phát hiện sự tồn tại của SCP-030-VN, cũng như Chu trình Moly diễn ra bên trong các cá thể Lycoris radiata;
- Loại bỏ những dấu vết lịch sử có thể tiết lộ tính chất dị thường của Lycoris radiata, khiến các sự kiện có liên quan trở thành những truyền thuyết, huyền thoại, truyện dân gian không đáng tin cậy;
- Tuyên truyền nhấn mạnh vào độc tính của Lycoris radiata, ngăn thường dân tiêu thụ dị thể và vô tình kích hoạt dị tính của SCP-030-VN;
- Nghệ thuật hoá (lãng mạn hoá, bi kịch hoá,…) hình tượng Lycoris radiata, qua đó làm suy yếu những tri thức dân gian xung quanh SCP-030-VN, đồng thời làm giảm uy tín của những trường hợp ngẫu nhiên tiêu thụ Lycoris radiata và kích hoạt dị tính.
Do tầm quan trọng của SCP-030-VN trong việc triển khai hoạt động quản thúc của Tổ Chức trong lĩnh vực phản truyền nhận thức, công thức và tính chất hoá học của SCP-030-VN hiện chỉ được truy cập bởi nhân sự có Quyền hạn An ninh Cấp 5 ("Tuyệt Mật") hoặc nghiên cứu viên có liên quan đến quá trình sản xuất thuốc nhớ tại Điểm-01.

Công thức cấu tạo của Galantamine.
Mô tả: SCP-030-VN là một hợp chất hoá học alkaloid có tính chất dị thường. Công thức cấu tạo hoá học của SCP-030-VN cực kỳ kém bền về mặt nhiệt động học, khiến việc tổng hợp nhân tạo hợp chất này hoàn toàn bất khả thi. SCP-030-VN chỉ có thể được tổng hợp và giữ ổn định thông qua một quá trình sinh hoá dị thường có dấu vết huyền thuật, được gọi là Chu trình Moly.
Chu trình Moly hiện chỉ được Tổ Chức quan sát xuất hiện trên loài thực vật Lycoris radiata. Hai sản phẩm chủ yếu của chu trình này là SCP-030-VN và Galantamine (C17H21NO3), với tỷ lệ SCP-030-VN dao động từ mức hoàn toàn không đáng kể2 đến xấp xỉ 1:1, tuỳ thuộc vào điều kiện sinh trưởng của cá thể Lycoris radiata đang được xét đến. Hiện tại, điều kiện cụ thể để làm tăng tỷ lệ SCP-030-VN trong hỗn hợp sản phẩm chỉ được Tổ Chức phỏng đoán dựa trên quan sát thực tiễn.
Tính chất dị thường của SCP-030-VN nằm ở khả năng kích thích tuyến tùng nằm trong não người, cho phép đối tượng tiêu thụ SCP-030-VN tiếp cận trực tiếp với vùng ký ức viễn siêu hình học, nằm ngoài hệ thống thần kinh bình thường. Hiện tượng này cho phép bỏ qua mọi hiệu ứng vật lý, hoá học, sinh học,… giúp đối tượng nhớ lại mọi sự kiện từng được não bộ ghi nhận, theo chiều ngược dòng ký ức, trong một khoảng thời gian nhất định. Lượng ký ức được nhớ lại tỷ lệ thuận với mức độ kích thích của tuyến tùng, cũng tức là tỷ lệ thuận với lượng SCP-030-VN được đối tượng tiêu thụ.
Phụ lục 1
THỬ NGHIỆM VỀ DỊ TÍNH CỦA SCP-030-VN
Đối tượng | Lượng tiêu thụ | Hình thức tiêu thụ | Kết quả thử nghiệm |
---|---|---|---|
D-49345 | 0,2 mg/kg | Qua hệ tiêu hoá | Đối tượng có triệu chứng nôn mức độ vừa và đã được can thiệp y tế để tránh gây đào thải SCP-030-VN. Sau khoảng 6 giờ, đối tượng được xác nhận có thể ghi nhớ lại chính xác mọi ký ức từng diễn ra trong vòng 3 ngày trước đó. |
D-32473 | 0,2 mg/kg | Tiêm tĩnh mạch | Sau khoảng 1 giờ, đối tượng được xác nhận có thể ghi nhớ chính xác mọi ký ức từng diễn ra trong vòng 7 ngày trước đó. |
D-58543 | 0,5 mg/kg | Tiêm tĩnh mạch | Sau khoảng 30 phút, đối tượng được xác nhận có thể ghi nhớ chính xác mọi ký ức từng diễn ra trong vòng hơn 2 tuần trước đó. |
<Đã thu gọn 43 thử nghiệm.> | |||
D-62851 | 25,0 mg/kg | Tiêm tĩnh mạch | Đối tượng được xác nhận đã ghi nhớ chính xác mọi sự kiện từ lúc bản thân được sinh ra, với từng chi tiết có độ chính xác tuyệt đối. |
D-53136 | 30,0 mg/kg | Tiêm tĩnh mạch | Đối tượng mất hoàn toàn nhận thức, co người lại trong tư thế bào thai, sau đó khoảng 2,5 giờ thì tử vong do mất phản xạ hệ thần kinh tự chủ. |
D-73209 | 35,0 mg/kg | Tiêm tĩnh mạch | Đối tượng tử vong gần như ngay lập tức do chết não không rõ nguyên nhân. |
D-52198 | 35,0 mg/kg | Truyền trực tiếp vào động mạch cảnh trong | Đối tượng được xác nhận đã ghi nhớ chính xác mọi sự kiện từ lúc bản thân được sinh ra, với từng chi tiết có độ chính xác tuyệt đối. Sau đó, đối tượng tiếp tục trình bày một loạt những ký ức không thể được kiểm chứng về một cuộc đời khác bằng tiếng Mãn Châu.3 Khi chỉ số Hume của đối tượng bắt đầu đột ngột tăng lên, giám sát viên thử nghiệm đã ra lệnh kết liễu đối tượng. |
Phụ lục 2
CÁC DỮ KIỆN LỊCH SỬ RẢI RÁC
Dưới đây là một số tài liệu được Đơn vị Tâm linh thu thập từ các nhóm nghiên cứu bình thường bên ngoài Bức Màn và một số Thế lực Đáng lưu tâm:
MOLY (Gr. μῶλυ) là một loại thảo mộc huyền bí mang quyền năng ma thuật được mô tả trong Homer, Odyssey, x. 302–306. Hermes đã hái và đưa nó cho Odysseus để tự vệ trước bùa phép của Circe. Nó được mô tả là “có rễ màu đen, […] và người phàm khó mà hái được”.
[…] Philippe Champault - Phéniciens et Grecs en Italie d'après l'Odyssée (1906), pp. 504 seq - đưa ra giả thuyết ủng hộ moly là Peganum harmala (họ Rutaceae), thường được gọi là vân hương Syria hay châu Phi (Gr. πήγανον), với phần vỏ cây của nó có thể được sử dụng để chiết xuất alkaloid ████ (C13H14N2O).
[…] Những đặc điểm nhận dạng này được ghi nhận bởi R. M. Henry trong Class. Rev. (Dec. 1906), p. 434, người đã diễn giải các thư tịch của Homer thông qua những cuộn giấy cói ma thuật ở Paris và Leiden, qua đó chỉ ra moly dường như chắc chắn là một cái tên ma thuật, có thể có nguồn gốc từ Phoenicia hoặc Ai Cập, cho một loại thực vật chưa thể được xác minh. Ông cũng cho rằng “khó mà hái được” không chỉ đơn thuần là một tính chất vật lý, mà có thể có liên quan đến những đặc tính dị thường của nó, theo cách nói của những pháp sư.— 1911 Encyclopædia Britannica, Quyển 18, Moly —
Hoa Bỉ Ngạn, còn gọi là hoa Mạn Châu Sa, hoa Mạn Đà La là một loài dị hoa chuyên dùng để chế tạo Ký Ức Đan. Hoa có màu đỏ như máu, cánh hoa mảnh như chân nhện, củ chứa chất kịch độc. Nhờ độc tính ấy, thường dân khó biết được dược tính thực sự của giống hoa này.
Công dụng quan trọng nhất của của loài hoa này là làm nguyên liệu bào chế ra Ký Ức Đan. Đây là một trong những phương thuốc quan trọng nhất của Dị Sự Giám ta, người dùng nó bất kể đã uống qua bùa mê thuốc lú gì đều có thể khôi phục trí nhớ như ban đầu. Liều lượng khi dùng thuốc rất quan trọng, người uống Ký Ức Đan quá liều sẽ cầm chắc cái chết.
Dược tính của hoa Bỉ Ngạn và phương pháp điều chế Ký Ức Đan của Dị Sự Giám do gia tộc Tây Quách thị dâng lên lúc mới quy thuận triều đình. Từ đó phương thuốc này chỉ được lưu truyền bí mật giữa các đời Chưởng Sự và tộc trưởng của Tây Quách thị.
Điều đặc biệt là để cây hoa này cho ra thứ thuốc có dược hiệu tốt nhất, cần phải trồng nó ở nơi có nhiều âm khí như nghĩa trang, lăng tẩm, chiến trường, vân vân. Một số thư tịch của Đông Doanh4 ghi nhận hoa Bỉ Ngạn mọc bên bờ Vong Xuyên là loại hoa có dược tính tinh khiết nhất, người ăn vào sẽ khai mở Thiên Nhãn Thông, có thể hồi tưởng ký ức đến vô thuỷ, vô chung.— Dị Sự Giám Dị Thảo Cương Mục, Môn Hoa Mộc, Bỉ Ngạn —
Vong hồn đi qua cầu Nại Hà, uống một chén canh gột rửa ký ức. Ký ức trôi theo dòng Vong Xuyên, kết tinh thành đoá hoa bên kia bờ sông. […]
— Lược dịch Các kinh điển Đáng lưu tâm của Diệp Tôn —
Phụ lục 3
CÁC DỮ KIỆN LỊCH SỬ TỪ SÁNG KIẾN
Tài liệu sớm nhất có liên quan đến SCP-030-VN trong cơ sở dữ liệu của Tổ Chức là bản sao điện tử của một quyển nhật ký viết tay đề tên "Đại úy William Roberts". Đây là tên của một Đặc vụ thuộc Sáng kiến Quản thúc và Lưu trữ Hoa Kỳ (tiền thân của Tổ Chức), hoạt động ngầm trong Hải đoàn Đông Ấn thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Một số đoạn quan trọng trong quyển nhật ký được trích dẫn dưới đây:
Ngày 25 tháng Ba năm 1853, Hải đoàn đã cập bến Singapore, theo dự kiến thì chúng tôi sẽ đến Nhật Bản để thực hiện "công tác ngoại giao" vào khoảng cuối năm nay. Sau khi được Chuẩn đô đốc Perry chấp thuận, tôi thực hiện sứ mệnh bí mật mà đơn vị đã giao phó, chỉ huy một con tàu nhỏ bí mật tách khỏi đoàn để đi đến khu vực Cochinchine5 và điều tra thông tin về một cộng đồng dân cư dị thường ở đó. Ngài Chuẩn đô đốc sẽ trì hoãn hành trình chậm nhất có thể, để chúng tôi có thể kịp quay trở về Hải đoàn tại Hong Kong vào khoảng cuối tháng Tư.
[…] Đám người này thân thiện hơn tôi nghĩ, không giống mấy dị điểm có cộng đồng người sinh sống tương tự ở phương Tây. Thành phần dân cư chủ yếu là người An Nam và người Trung Hoa, đa phần không mang đặc tính dị thường, phần lớn là các gia đình pháp sư có kiến thức về huyền thuật học. Đặc tính dị thường về mặt không gian biến nơi này thành địa điểm lý tưởng cho những người như họ, trong bối cảnh cả triều đình nhà Nguyễn và nhà Thanh đều đang có thái độ thù địch với các nhóm pháp sư, dị sĩ.

Tranh khắc Nhật Bản mô tả Chuẩn đô đốc Matthew C. Perry (giữa) và các sĩ quan cao cấp của Hải đoàn Đông Ấn Hoa Kỳ.
[…] Ngày 26 tháng Tư, tôi cuối cùng cũng đến được Hong Kong và Hải đoàn đã đợi sẵn ở đó. Ngài Chuẩn đô đốc đã giữ cả đội ở đó suốt ba tuần liền chỉ để đợi tôi quay lại.
[…] Kiểm kê lại những thứ tôi thu được ở Cochinchine thì chủ yếu là sách, dù sao lúc đó thời gian không còn nhiều nên tôi quyết định lấy những thứ có hàm lượng trí thức cao nhất. Đống sách đó toàn chữ khuôn, chữ cỏ gì gì đấy, nội dung thì toàn là bùa phép của dân bản địa. Đoạn duy nhất chúng tôi có thể tạm xác định ngữ nghĩa, là về một phương thuốc kỳ diệu có thể khôi phục trí nhớ, bất kể nó đã bị mất đi bằng cách nào. Hiện tại tôi không có dự định thử điều chế nó, công việc sắp tới ở Nhật Bản có lẽ sẽ khá bận rộn nên tôi sẽ kết thúc nhiệm vụ bí mật ở đây.
[…] À mà nguyên liệu chính của loại thuốc này là một loài thực vật bản địa ở Đông Á có cái tên khá kỳ dị là "hoa của bờ bên kia". Giống hoa này mọc khá nhiều ở Nhật Bản, nên có thể tôi sẽ mang một ít mẫu vật về Hoa Kỳ. […]
— Đại úy William Roberts —
Phụ lục 4
CÁC DỮ KIỆN LỊCH SỬ TỪ CNĐLT-220963
Do điều kiện hoạt động hạn chế lúc bấy giờ của Sáng Kiến, phần lớn những tài liệu do Đại úy William Roberts thu thập được hiện đã bị thất lạc. Hầu hết những dữ kiện nghiên cứu ban đầu về SCP-030-VN của Tổ Chức đến từ các tài liệu được tìm thấy tại Tiền Đồn Nha Trang của Điểm-75-VN. Trước khi được Tổ Chức tiếp quản vào năm 1941, Tiền Đồn là một cơ sở nghiên cứu của CNĐLT-220963, một cá nhân thuộc Thế lực Đáng lưu tâm "Hội Quý Ông Nhân Văn". Dưới đây là các tài liệu có liên quan đã được chọn lọc để đưa vào hồ sơ:
(Một mảnh giấy đính kèm đầu lá thư.)
Tôi, ký tên dưới đây, Giám đốc Viện Pasteur, Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, Huân chương Bắc Đẩu bội tinh, chứng nhận rằng bác sĩ Alexandre ███, là nghiên cứu sinh y khoa tại Hôtel-Dieu de Paris6, Đại học Paris, và đã giữ trách nhiệm điều chế viên phòng thí nghiệm hóa sinh tại École normale supérieure, sau đó là Viện Pasteur, từ tháng Bảy năm 1886 cho đến bây giờ. Tôi sung sướng nhận thấy ông ███ luôn luôn thực thi các công việc của mình với nhiệt tâm cao nhất và ông đã cho ấn hành, trong thời gian ở phòng thí nghiệm của tôi, nhiều công trình được đón nhận tốt từ các nhà bác học có thẩm quyền.— Louis Pasteur —
Paris, chính quốc Pháp, năm 1890
Gửi Alexandre ███, môn đệ xuất sắc nhất của thầy,
Sau nhiều ngày đắn đo suy nghĩ, thầy đã có quyết định của mình. ███ à, năm ngoái, trong cái khoảnh khắc con cùng Roux tìm ra độc tố gây bạch hầu ở C. diphtheriae, dù rằng con chỉ mới nhận bằng Tiến sĩ và đến chỗ của thầy chưa đầy một năm, thầy biết mình đã tìm ra thêm một truyền nhân nữa cho Viện Pasteur. Con hẳn sẽ có một tương lai hành nghề y và nghiên cứu sinh học xuất chúng.
Cơ mà, thầy cũng biết, con là một chàng trai 26 tuổi với sức trẻ luôn tuôn trào trong huyết quản, với ước mơ trở thành một Livingstone của lục địa châu Âu. Và rồi, ham muốn du hành đến những vùng đất mới bỗng bùng cháy trong con, thôi thúc con đi đến xứ sở xa xôi.
Ta không thể giữ con ở lại, trói buộc con lên bàn thí nghiệm, giết chết tâm hồn của một nhà phiêu lưu chỉ vì những lý tưởng của riêng thầy. Vậy nên thầy tôn trọng quyết định của con, đây là tất cả những gì thầy có thể làm để giúp chuyến hải trình sắp tới của con thuận lợi hơn. Thầy hy vọng vài dòng mà thầy để lại bên trên có thể giúp con tìm được một công việc tạm thời trên tàu viễn dương của Công ty Messageries Maritimes. Con có thể làm bác sĩ cho thuỷ thủ trên tàu của họ trong khoảng thời gian đi đến Viễn Đông.
Cuối cùng, thầy sẽ làm điều mà thầy cần làm, trao cho con thứ mà con đã xứng đáng có được từ lâu, danh hiệu của một Quý Ông.
Chúc con sớm tìm ra ý nghĩa của đời mình ở xứ sở Đông Dương xa xôi.
— Quý Ông Louis Pasteur —
(Trích từ bức thư của CNĐLT-220963 gửi mẹ mình vào năm 1891, sau khi người mở một phòng khám ở Nha Trang.)
[…] Bệnh nhân An Nam từ khắp nơi đổ về đây, những lúc con không đi chơi đâu đó. Nói cho đúng, họ lợi dụng hiểu biết khoa học của con, nhất là những lúc, để trả tiền con, họ lại thân ái đánh cắp ví của con. Nhưng biết làm sao bây giờ, trong óc họ, ăn cắp tiền của một người Pháp là một hành động tốt. Vả lại, người Pháp đến xứ Đông Dương này để làm gì đây, nếu không phải là ăn cắp của người An Nam? […]
(Trích từ bức thư của CNĐLT-220963 gửi Louis Paster vào năm 1893, sau khi trở về từ một chuyến thám hiểm ở Tây Nguyên.)

CNĐLT-220963 tại Cao nguyên Lâm Viên vào năm 1893.
[…] Khi lên đến đỉnh núi đó, những ngọn đồi được rừng thông phủ kín, xen lẫn với những thung lũng có cỏ xanh thăm thẳm, với chút se lạnh hiếm hoi của xứ nhiệt đới này, tất cả khiến con tưởng như mình đã trở về Thuỵ Sĩ. Người bản xứ gọi đỉnh núi này là Lang Biang. Con sẽ dùng cái tên này để gọi cả vùng cao nguyên con vừa khám phá được vậy.7
Con đã liên hệ với một người bạn của con, Paul Doumer,8 hiện đang làm việc ở chính quyền thuộc địa. Chúng con dự định vận động chính quyền xây dựng một khu nghỉ dưỡng ở vùng đất mới này. Sự mát mẻ ở đây phù hợp để điều dưỡng cho những viên chức châu Âu chưa quen hẳn với khí hậu nhiệt đới, như một châm ngôn thầy đã dạy trong môn tiếng Latinh: DALAT.9 […]
Thời Báo The Liverpool Guardian
Thứ Năm, ngày 23 tháng Sáu năm 1895
Tròn một năm ngày khám phá ra vi khuẩn gây bệnh dịch hạch
[…] Vào ngày này của một năm về trước, thuộc địa Hong Kong đã trở thành tâm dịch của một trong những đợt bùng phát dịch hạch tồi tệ nhất trong lịch sử cận đại, dường như chỉ xếp sau Cái Chết Đen về mức độ tàn phá. Lord Ripon, Bộ trưởng Ngoại giao của chính quyền thuộc địa Hong Kong cho hay: "… không hề cường điệu, tôi khẳng định là dịch hạch lần này là một thiên tai vô tiền khoáng hậu, có tác động khủng khiếp đến hoạt động thương mại và giao thương của Đế quốc trên toàn Viễn Đông…"

CNĐLT-220963 và phòng thí nghiệm dã chiến của mình ở Hong Kong năm 1894.
[…] Hai nhà khoa học đã gần như phát hiện ra loại trực khuẩn này cùng một lúc, Kitasato Shibasaburo của Đế quốc Nhật Bản, người đã nhận được sự hỗ trợ tận tình của chính quyền thuộc địa Đế quốc Anh và Alexandre ███, một người Pháp gốc Thuỵ Sĩ, người phải tiến hành nghiên cứu trong các điều kiện tồi tàn. Rất rõ ràng, một nhà khoa học người Pháp không được chào đón trong việc nghiên cứu bệnh dịch tại một thuộc địa Anh.
[…] Cho nên, mặc dù còn nhiều tranh cãi về việc ai đã phát hiện ra vi khuẩn trước, giới khoa học phương Tây đã chấp nhận Pasteurella pestis10 làm danh pháp cho nó, cũng như ghi nhận đóng góp của bác sĩ ███ trong việc xác định chuột là trung gian lây truyền hàng đầu của dịch hạch. […]
Paris, chính quốc Pháp, năm 1895
Gửi Alexandre ███, môn đệ cuối cùng của thầy,
Khi lá thư này được gửi đến Nha Trang, có lẽ thầy đã trút hơi thở cuối cùng. Chứng ure huyết của thầy đã vô phương cứu chữa. Thầy đã được nghe về thành tựu vang dội của con ở Hong Kong và không biết nói gì hơn ngoài lời chúc mừng.
[…] Thầy mong cái chết của thầy sẽ khiến con cảm ngộ sâu sắc hơn nữa triết lý của Hội. Chỉ chữa khỏi những căn bệnh là chưa đủ, bứt phá khỏi những giới hạn tự nhiên của cơ thể con người mới là mục tiêu cuối cùng của chúng ta, những Quý Ông.
[…] Năm ngoái, Albert Calmette có gửi cho thầy báo cáo về một loài hoa siêu nhiên của vùng Viễn Đông có dược tính liên quan đến ký ức con người mà cậu ta tìm hiểu được lúc còn ở Sài Gòn. Do Calmette đã về nước, thầy mong con có thể tiếp tục những nghiên cứu còn đang dang dở của cậu ấy.
Lời chúc thành công và lời chào tạm biệt cuối cùng.
— Quý Ông Louis Pasteur —
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Mười năm 1901.)
Đã tròn năm năm kể từ ngày tôi bắt đầu nghiên cứu về thứ này. Gần như mọi đặc tính của giống hoa này, cũng như dược tính của nó trên động vật đều đã được phân tích đến từng chi tiết nhỏ nhất. Có lẽ tôi đã đi sai hướng, chắc là tôi nên lưu tâm hơn đến những tài liệu có sẵn của người bản địa. […]
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Ba năm 1902.)
[…] École de Médecine de Hanoi11 đã khai giảng khoá đầu tiên. Chi phí để xây dựng và vận hành một trường y khoa thật là một tốn kém khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ chúng xứng đáng, hay ít ra là có ý nghĩa hơn so với cái Nhà hát ở Sài Gòn. Công việc nhiều hơn tôi nghĩ, có lẽ tôi phải giữ chức hiệu trưởng này thêm một khoảng thời gian nữa mới trở về Nha Trang được.
[…] Những sinh viên này xuất sắc không kém gì những thiên tài ở Paris. Họ thông minh theo một cách rất riêng, không phải theo kiểu khai phóng và thực chứng như người châu Âu chúng ta, mà là tài năng kết tinh từ sự chăm chỉ, siêng năng và quan sát tinh tế, theo một cách rất châu Á.
[…] Cậu ta là một người An Nam rất thông minh và ham học hỏi, đặc biệt là rất rành chữ Hán Nôm và có xuất thân khá cao quý, con trai của một hoàng tử ở Huế. Giống như tôi, cậu ta đã chọn con đường của một nhà khoa học phiêu lưu, để tránh xa những ồn ào chính trị nơi đô thành của mình. Tôi đã thành công thuyết phục cậu ta đến học việc ở chỗ của tôi sau khi tốt nghiệp. […]
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Một năm 1912.)
Tổng kết năm vừa rồi thôi nhỉ? Công việc nghiên cứu có tiến triển khá ổn kể từ khi tôi bắt đầu làm việc với người Môn Đệ này. Đại khái thì chúng tôi đã phục dựng thành công hình thức ban đầu của cái gọi là "Ký Ức Đan". Chỉ là kết quả thử nghiệm trên động vật không được khả quan lắm, có lẽ ngày mà chúng tôi thực sự đạt được thành công còn rất rất xa. […]
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Mười Một năm 1919.)
[…] Với từng ấy những đóng góp cho y học, đáng nhẽ ra tôi nên ở bên những đồng môn của Viện Pasteur, ở Paris hoặc Geneve, làm giám đốc một bệnh viện hay viện nghiên cứu mới phải. Nhưng tôi lại quyết định dành một nửa cuộc đời còn lại của mình để nghiên cứu về hoa cỏ. Thực ra thì thế mới đúng với tinh thần của một Thượng Nhân, một triết gia cổ điển, đó là sự tinh thông hoàn hảo về nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên. Thế là tôi dành ngần ấy thời gian chỉ để nghiên cứu thực vật học và kĩ thuật nông nghiệp.
[…] Có nhiều lúc tôi tự hỏi bản thân, việc này đáng chứ? Tôi chỉ mất một năm trong phòng thí nghiệm vi sinh để đưa tên tuổi của bản thân lên đến đỉnh cao, sau đó lại dành hàng chục năm để trồng cây ở một tiền đồn xa xôi không ai biết đến? Những lúc như thế này, tôi thường mở lại lá thư cuối cùng của thầy Pasteur. Một Quý Ông đâu cần những danh tiếng hão huyền đó. […]
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Bảy năm 1922.)
Làm việc một thời gian dài bên cạnh một chàng trai Á Đông làm tôi thấu hiểu hơn quan niệm về cái chết của họ. Trước đây, tôi đã được vài lần được quan sát người bản địa bị hành quyết bằng cách chặt đầu. Lúc đó, tôi không làm sao hiểu được sự bình tĩnh của họ. Họ không sợ phải xuống địa ngục, hay tin chắc mình đã có một chỗ trên thiên đàng chăng, cơ mà cho dù là vậy thì họ không cảm thấy luyến tiếc chút nào với cuộc sống này hay sao?
Thì ra đối với họ, cuộc sống này chỉ là một khoảnh khắc nhỏ bé trong một chu kỳ vĩ đại hơn. Không phải là sự sống đời đời ở thiên đàng, mà là một chuỗi bất tận của sự sống và cái chết. Như hạt cát giữa sông Hằng. Điều này khiến cho quá khứ dường như rất quan trọng đối với họ. Tôi đã được nghe họ kể câu chuyện về những sử gia Trung Hoa liều chết để bảo vệ ghi chép của họ. Còn chúng ta dường như quan tâm đến cuộc sống sau cái chết nhiều hơn là cuộc sống trước khi ta được sinh ra, và hiếm khi tự nhủ bản thân đã từng là những gì?
Cả một đời nghiên cứu về sự sống, chưa bao giờ tôi lại có cảm ngộ sâu sắc về cái chết đến như vậy. Có lẽ là do người Môn Đệ đầu tiên của tôi đang hấp hối sao?
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Tám năm 1922.)
Tôi đã định truyền chức Quý Ông cho cậu ta trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, mặc dù lý tưởng Khai Sáng trong cậu ấy chưa đạt đến những tiêu chuẩn của Hội. Nhưng nghĩ lại thì cậu ta có thể tiếp tục trào dồi bản thân ở những kiếp sống khác. Dù sao đây cũng đâu phải kiếp sống cuối cùng của cậu ấy. Tôi tự nhủ, như thể mình là một người An Nam chính hiệu đang tự giảng giải cho chính mình về thuyết luân hồi.
[…] Khi được hỏi về nguyện vọng cuối đời, cậu ấy muốn một viên "Ký Ức Đan" bản chưa hoàn chỉnh. Dù sao cũng chết, có lẽ cậu ta muốn trải nghiệm cái cảm giác kỳ diệu đó một lần, hoặc cũng có thể cậu ấy đang muốn gửi những đóng góp cuối cùng vào nghiên cứu của thầy mình.
[…] Cậu ấy không ngừng kể về cuộc đời của mình, từ những ký ức vui vẻ nhất đến những ký ức tồi tệ nhất, ví như hai lần cậu ấy nghe tin người bác và người anh họ của mình bị lưu đày đến hải ngoại.12 Cũng dễ hiểu khi mà cậu ấy đã lớn lên trong một nền giáo dục Nho giáo chú trọng vào lòng trung thành và quan hệ gia đình.
Khi nhìn vào mắt cậu ấy, tôi như đắm chìm vào câu chuyện đang được nghe kể, như thể bản thân đang đứng giữa một cung điện cổ kính ở Huế. Cậu ta đang quỳ trước hương án để chuẩn bị tiếp nhận sắc phong từ vị Hoàng đế đang bị giam lỏng trong Hoàng thành. Dù đã đánh mất hết thảy thực quyền, ít ra cái triều đình ấy vẫn còn khả năng thi hành những lễ nghi căn bản như vậy. Dường như đó là ngày mà cậu ta cảm thấy vinh dự nhất trong cuộc đời của mình.
[…] Sau khi lắng nghe người em họ kể về những thú vui cao sang của giới thượng lưu ở Paris mà nó đã được trải nghiệm, bỗng chốc ý định du học trong cậu vụt tắt. Đúng rồi, đời nào họ lại đi truyền bá những tri thức thực thụ cho một hoàng tử An Nam, họ chỉ muốn nhấn chìm cái hoàng tộc đã đổ nát này vào thuốc phiện và hoan lạc mà thôi. Ngày hôm đó, cậu đã quyết định rời Huế đến Hà Nội để tìm kiếm những tri thức thật sự mà mình muốn tìm.
[…] Rồi trong một khoảnh khắc, ánh mắt cậu ta như loé lên một ánh sáng kỳ lạ. Cậu ta chợt chuyển sang nói tiếng Anh:
"Thật kỳ diệu, thật kỳ diệu thưa thầy. Con đã hiểu rồi. Con từng là một người Mỹ ở xa xăm bên kia bán cầu. Con sinh ra trên mảnh đất này vì con đã từng đến đây. Con gặp thầy và nghiên cứu về loài hoa này, vì con cũng đã từng tìm kiếm nó. Đơn giản làm sao, mọi thứ thật đơn giản làm sao."
Rồi cậu ta đột nhiên im lặng và nhắm nghiền mắt lại, như đang tận hưởng những bí mật cao siêu nhất của tạo hoá. Sau đó, cậu ta mở mắt nhìn tôi rồi hướng tầm mắt về một vùng trời xa xăm nào đó.
"Thì ra sẽ là như vậy." - Cậu ta nói trước khi trút hơi thở cuối cùng.
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Mười Hai năm 1928.)
Thêm một thành viên Viện Pasteur nữa đạt được giải Nobel, cái thứ tư rồi. Tôi bắt đầu tự hỏi về ý nghĩa của nghiên cứu mình đang thực hiện. Có lẽ câu trả lời sẽ đến khi tôi uống viên thuốc đó, giống như tia sáng đã loé lên trong mắt cậu ta. Tầm nhìn giác ngộ của cậu ấy đã ám ảnh tâm trí tôi đến tận ngày hôm nay. Chưa bao giờ tôi thấy bản thân háo hức chờ đến lượt mình được chết như vậy. […]
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Sáu năm 1938.)
Émile, Chamberland, Metchnikoff, Grancher và Roux, từng người một đã ngã xuống trước tôi. Tôi trở thành Môn Đệ cuối cùng của Pasteur, xét cả người sống và người chết. Có lẽ đây chỉ là sự ngẫu nhiên của tạo hoá, của mã gen di truyền, hay là nhờ lối sống thanh tịnh của tôi, ai mà biết được? […]
(Trích từ nhật ký cá nhân của CNĐLT-220963 vào tháng Năm năm 1942.)
[…] Tôi đã rất cố gắng thấu hiểu cái ý thức hệ mà chính quyền Vichy đang cố gắng tuyên truyền, cơ mà không thể. Nghe nói người Do Thái ở Paris đã bắt đầu phải mang ngôi sao sáu cánh và bị cấm đến những nơi công cộng. Nước Mỹ đã tham chiến. Singapore đã thất thủ. Chiến tranh đã lan rộng đến mức không thể cứu vãn. Thế là đâm ra tôi lại ngưỡng mộ những đối thủ bên kia eo biển Anh. Ít ra họ sẵn sàng chiến đấu đến cùng trên biển cả, trên bờ bãi, trên những cánh đồng, con phố, ngọn đồi, và sẽ không bao giờ đầu hàng.
[…] Khi chứng kiến vô số những phát kiến của Viện Pasteur bị đem ra làm vũ khí sinh học, lần đầu tiên tôi phải tự chất vấn bản thân về sự phát triển của khoa học, và lần đầu tiên lý tưởng Tân Khai Sáng trong tôi lung lay đến như vậy. Những gì tôi đã làm, đã cống hiến liệu chúng có đúng đắn và ý nghĩa gì trong tương lai hay không?
Nha Trang, Đông Dương, ngày 1 tháng Ba năm 1943

Nhà riêng của CNĐLT-220963 tại Nha Trang vào khoảng năm 1900.
Khoảnh khắc mà tôi chờ đợi bấy lâu đã đến. Là một bác sĩ đã thực hành chức nghiệp cả đời, tôi hiểu rõ mình có bao nhiêu giây phút nữa để sống. Đã đến lúc tôi thử cái cảm giác mà cậu ấy từng trải nghiệm. Một viên là đủ, dược tính đã được điều chỉnh tới mức tối ưu, nhờ mấy chục năm nghiên cứu của chúng tôi.
Ồ, tôi hiểu rồi, ra là vậy. Mặc dù tương lai vốn không được định sẵn bởi một đấng siêu nhiên vô hình nào đó và cũng chẳng có một kịch bản thiêng liêng nào đã được viết ra từ trước, mà là do quyết định của mỗi con người chúng ta, nhưng thật trớ trêu thay, quyết định của con người lại là thứ thật dễ đoán, bởi họ là những sinh vật được xây dựng từ quá khứ và trải nghiệm, họ đưa ra quyết định theo những thứ họ đã từng trải qua như một quyển sách nông cạn dễ dàng đoán trước cái kết.
Trong khoảnh khắc này, trí tuệ nhỏ bé của tôi bỗng trở nên như con quỷ của Laplace.13 Khi có đủ những dữ kiện về quá khứ, ai trong chúng ta cũng có thể sắm vai của một nhà tiên tri.
Khi các anh đến đây, hãy mang tất cả những tài liệu mà các anh cần rời đi, để lại những thứ khác và đừng động đến thi thể của tôi, các anh có nửa ngày để thu dọn trước khi người giúp việc của tôi đến vào sáng mai. Giờ thì tôi không còn hối tiếc gì nữa rồi, tôi được biết những gì mình đã làm đã, đang và sẽ có ý nghĩa như thế nào. Chúc các anh vận dụng thành công những kết quả nghiên cứu của tôi.
Chúng ta chết trong bóng tối, để họ được sống trong ánh sáng.
— Quý Ông Alexandre ███ —
Các Đặc vụ của Tổ Chức đang phụ trách việc theo dõi CNĐLT-220963 sau một thời gian không quan sát thấy đối tượng trở ra từ phòng ngủ đã quyết định đột nhập vào bên trong. Đối tượng được tìm thấy đã tử vong trong tư thế ngủ say và mỉm cười, với bức thư nói trên nằm bên cạnh. Tổ Chức đã nhanh chóng thu hồi các tài liệu có liên quan tại hiện trường trước khi người giúp việc của đối tượng phát hiện sự việc.
Toàn bộ kết quả nghiên cứu về SCP-030-VN của CNĐLT-220963 đã được Tổ Chức thu hồi và tiếp tục nghiên cứu phát triển. Kết quả của các nghiên cứu này vào những năm 1950 đã trở thành nguyên mẫu ban đầu của các loại thuốc phục hồi ký ức Mnestic Lớp W, X, Y và Z, hiện đang được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực phản truyền nhận thức và quản thúc dị thể ảnh hưởng ký ức. Để biết thêm thông tin có liên quan, vui lòng xuất trình Quyền hạn An ninh Cấp 5 tại cơ sở dữ liệu của Điểm-01.
Thêm tác phẩm bởi KH Nam