#side-bar {
/* ===SECONDARY & TERTIARY COLORS=== */
/* Editing these will edit a vast majority of theme elements. Useful for making dark themes */
/* Colors for Secondary & Tertiary items like Blockquote and YUI Tabs */
--swatch-secondary-color: var(--swatch-menubg-dark-color);
--swatch-tertiary-color: var(--swatch-menubg-medium-color);
--swatch-alternate-color: var(--swatch-menubg-light-color);
/* Text Colors for Secondary & Tertiary items like Sidebar Headers and Top-Bar Menu Text */
--swatch-text-secondary-color: var(--swatch-menutxt-dark-color);
--swatch-text-tertiary-color: var(--swatch-menutxt-light-color);
/* ===SIDE-BAR ELEMENTS=== */
/* ===SIDE-BAR GENERAL=== */
--sidebar-bg-color: var(--swatch-menubg-dark-color);
--sidebar-resources-bg-color: 0,0,0,0;
--sidebar-media-bg-color: 0,0,0,0;
/* ===SIDEBLOCK MENU=== */
--sideblock-heading-border-color: var(--bright-accent);
--sideblock-heading-bg-color: 0,0,0,0; /* Transparent */
--sideblock-heading-text-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
/* ===MENU-ITEMS=== */
--sidebar-border-color: var(--swatch-primary), 0.08;
--sidebar-subtest-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-links-text: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-links-hover-bg-color: var(--bright-accent);
--sidebar-links-hover-text-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
/* ===SIDEBAR COLLAPSIBLES=== */
/*Folded Colors */
--sidebar-collapsible-fld-link-bg: var(--swatch-primary), 0.25;
--sidebar-collapsible-fld-link-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-collapsible-fld-link-hover-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-collapsible-fld-arrow-hover-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
/*Unfolded Colors */
--sidebar-collapsible-ufld-link-bg: var(--swatch-primary-darker), 0.25;
--sidebar-collapsible-ufld-link-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-collapsible-ufld-link-hover-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-collapsible-ufld-arrow-hover-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
/* Unfolded Body Colors */
--sidebar-collapsible-link-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
--sidebar-collapsible-link-hover-color: var(--swatch-text-tertiary-color);
scrollbar-color:
rgba(var(--swatch-primary-darker), 0.1) /* Thumb */
rgba(var(--swatch-secondary-color), 0.05); /* Track */
border-color: rgba(var(--swatch-secondary-color), 0.4);
}
/* Hover Scrollbar Behavior */
#side-bar:hover,
#side-bar:active {
scrollbar-color:
rgb(var(--swatch-primary-darker), 1) /* Thumb */
rgb(var(--swatch-menubg-dark-color), 1); /* Track */
}
#side-bar:focus-within {
scrollbar-color:
rgb(var(--swatch-primary-darker), 1) /* Thumb */
rgb(var(--swatch-menubg-color), 1); /* Track */
}
#side-bar::-webkit-scrollbar-track {
background-color: rgba(var(--swatch-tertiary-color), 0.8);
}
#side-bar::-webkit-scrollbar,
#side-bar::-webkit-scrollbar-thumb,
#side-bar::-webkit-scrollbar-corner {
background-color: rgba(var(--swatch-menubg-dark-color), 0);
}
#side-bar .side-block.media a:any-link {
background: rgba(var(--swatch-menubg-light-color),0.75) !important;
}
#side-bar .side-block.media a::before {
background: rgb(var(--social-color));
}
#side-bar .side-block.media a img {
filter: drop-shadow(0 0 0 rgba(var(--swatch-alternate-color),0));
transition: filter 200ms cubic-bezier(0.4, 0, 0.2, 1);
}
#side-bar .side-block.media a:hover img,
#side-bar .side-block.media a:active img {
filter: drop-shadow(0.1875rem 0.1875rem 0 rgb(var(--swatch-alternate-color)));
}
#side-bar .side-block.media a:focus-within img {
filter: drop-shadow(0.1875rem 0.1875rem 0 rgb(var(--swatch-alternate-color)));
}
html:not(:lang(cn)) div.scpnet-interwiki-wrapper p::before {
box-shadow: inherit;
}
.scpnet-interwiki-wrapper {
-webkit-filter: invert(0.8) hue-rotate(180deg) saturate(0.8);
filter: invert(0.8) hue-rotate(180deg) saturate(0.8);
}
3/4059 CẤP 3/4059
BẢO MẬT
Hình 1.1: Một căn chòi bị bỏ hoang được tìm thấy tại SCP-4059-1
Quy trình Quản thúc Đặc biệt: Điểm lâm thời-144 đã được xây dựng xung quanh SCP-4059-1 dưới vỏ bọc một chi nhánh của Văn phòng Cá và Động vật Hoang dã của Cục Bảo vệ Môi trường New Jersey (NJDEP). Bất kỳ dân thường nào cố gắng đi vào vùng lân cận của SCP-4059-1 đều phải bị từ chối với lí do khu vực này là môi trường sống được bảo vệ của quần thể Crotalus horridus (rắn đuôi chuông khoang).
Hiện tại, một cá thể SCP-4059-2 đang được giam giữ trong buồng quản thúc Loại-C tại Điểm lâm thời-144. Cá thể này cần được cung cấp nước ngọt từ SCP-4059-1, được thay hàng tháng và được cho ăn một con lợn sống ba tháng một lần. Trong trường hợp có thêm cá thể SCP-4059-2 được phát hiện, MTF Nu-5 (“Cabin Fever") sẽ được triển khai để quản thúc thực thể. Bất kỳ dân thường nào đã chứng kiến hoặc bị tấn công bởi cá thể SCP-4059-2 sẽ được cấp thuốc lú loại A và phóng thích.
SCP-4059-3 sẽ được cất giữ trong một hộp ký gửi an toàn tại Điểm lâm thời-144. Trong mọi trường hợp, Quy trình 4059-Chemosh không được thực hiện.
Mô tả: SCP-4059 là định danh chung cho một loạt các hiện tượng dị thường tập trung xung quanh Khu Bảo tồn Quốc gia Pinelands ở New Jersey, Hoa Kỳ.
SCP-4059-1 là một hồ chứa nước ngọt hình tròn có bán kính 30 mét, nó nằm ở trung tâm của một bãi đất trống cũng hình tròn bán kính 330 mét ở phía tây thị trấn Leeds Point, New Jersey. Bao quanh hồ chứa là sáu cabin một phòng bị bỏ hoang, ước tính chúng được xây dựng khoảng 150 năm trước. Các nhà khảo cổ của Tổ Chức đã phát hiện một ngôi mộ tập thể dọc theo rìa cực tây của khu đất trống. Khu mộ được tìm thấy chứa các loại hài cốt của khoảng 72 trẻ sơ sinh, nhiều hài cốt có biểu hiện dị tật thể chất nghiêm trọng. Hồ nước và các cấu trúc lân cận của nó không có tính dị thường trừ khi có hai đối tượng phù hợp cố gắng thực hiện Quy trình 4059-Chemosh.
SCP-4059-2 là những sinh vật hai chân giống dê nhưng có nhiều điểm khác biệt so với loài dê bình thường. Đáng chú ý, các thực thể SCP-4059-2 cao trung bình khoảng 2 mét, với đôi cánh dơi nhô ra từ bả vai, chi trước giống tay người với móng vuốt có hình móc câu, răng cửa lồi lên, có dấu vết của tuyến vú trước ngực, không có lông, đuôi hình chạc. Giống như nhiều loài dê bình thường, cá thể có một cặp sừng lớn hình nhô ra trên đỉnh đầu và một nhúm râu nhỏ phe phẩy ở gốc cằm.
SCP-4059-2 là những kẻ săn mồi lão luyện, chúng rình rập và làm vô hiệu hoá con mồi bằng một phát cắn vào cổ họng. Các cá thể được báo cáo có thể di chuyển với tốc độ lên tới 90 km/h trong một khoảng thời gian ngắn để truy đuổi con mồi. SCP-4059-2 thường tránh tiếp xúc với con người, nhưng có thể trở nên hung dữ khi bị bẫy hoặc bị khiêu khích, chúng cũng được biết là từng rình rập và giết người. Trong những khoảng thời gian ngẫu nhiên, SCP-4059-2 sẽ quay lại SCP-4059-1 để uống nước.
SCP-4059-3 là nhật ký cá nhân của Japhet Bartosiewicz, một người nhập cư Ba Lan. Nhật ký bao gồm thông tin chi tiết về quá trình thành lập và cuộc sống hàng ngày của ông với tư cách là cư dân của SCP-4059-1 cũng như các hướng dẫn để thực hiện đúng Quy trình 4059-Chemosh.
Phụ lục 4059-1: Quy trình 4059-Chemosh
Sử dụng các mô tả chi tiết được tìm thấy trong SCP-4059-3, Quy trình 4059-Chemosh đã được phục dựng.
Quy trình 4059-Chemosh diễn ra trong ba giai đoạn chính với đối tượng tham gia là hai người khác giới. Kể từ giờ, định danh Đối tượng A sẽ được gán cho người nam và Đối tượng B sẽ được gán cho người nữ.
Giai đoạn 1
- Giai đoạn 1 phải diễn ra vào đêm trăng tròn đầu tiên trong năm và trong ranh giới của SCP-4059-1.
- Đối tượng A phải tập hợp 12 phần mũ của bất kỳ loại nấm nào thuộc chi Amanita (Mũ tử thần) và sắp xếp chúng theo hình tròn đều xung quanh Đối tượng B, người sẽ nằm ở tư thế ngửa.
- Đối tượng A phải kết nối các mũ nấm liền kề nhau bằng cách vẽ một hình tròn bằng máu của bất kỳ động vật nào thuộc chi Capra (Dê nhà).
- Đối tượng A sau đó phải sử dụng máu để tiếp tục vẽ một con dấu nghi lễ giữa các mũ nấm, con dấu bao gồm bốn hình tam giác đồng tâm, đều, được đặt lệch nhau, với các kí tự rune được ghi ở các đỉnh của mỗi hình tam giác, cũng như ở tâm của chúng.
- Đối tượng A phải dùng dao rạch lên lòng bàn tay và ngực trên của Đối tượng B và sau đó làm điều tương tự với chính mình.
- Các đối tượng phải thực hiện giao cấu.
- Nếu Giai đoạn 1 đã được hoàn thành đúng cách, Đối tượng B sẽ mang thai dù cho cô ta còn khả năng sinh sản hay không.
Giai đoạn 2
- Bắt đầu ngay sau Giai đoạn 1, Đối tượng B phải nhịn ăn trong thời gian mỗi lần trăng tròn trong khi đang mang thai, và chỉ được ăn vào ban đêm vào những ngày này.
- Mỗi bữa ăn đêm mà Đối tượng B có trong ngày trăng tròn phải được trộn giữa máu của một loài động vật thuộc giống Capra và của Đối tượng A. Mỗi bữa ăn phải được mở đầu bằng một lời cầu nguyện.
Nếu thực hiện đúng, Đối tượng B sẽ mang thai chính xác 265 ngày, cổ tử cung bắt đầu giãn nở vào lúc 1800 EST của ngày 264 và sẽ sinh con sau đúng 6 giờ chuyển dạ..
Giai đoạn 3
- Khi Đối tượng B bắt đầu chuyển dạ, Đối tượng A phải đứng ở rìa của hồ nước của SCP-4059-1 và đọc những lời cầu nguyện khác nhau trong ba giờ.
- Trong quá trình sinh nở, Đối tượng A sẽ đóng vai trò là bà đỡ, hỗ trợ việc sinh con (sau đây gọi là Đối tượng C).
- Sau khi sinh, Đối tượng A phải cắt dây rốn và tắm cho Đối tượng C bằng máu.
- Đối tượng B, được hỗ trợ bởi Đối tượng A, phải ngay lập tức mang Đối tượng C đến hồ nước ở trung tâm của SCP-4059-1 và thả nó xuống nước. Đối tượng C phải chết đuối trong hồ nước. Việc hoàn thành bước này đánh dấu sự kết thúc của Quy trình 4059-Chemosh và xác của Đối tượng C sẽ trải qua quá trình biến đổi thể chất dữ dội thành một cá thể SCP-4059-2 đã trưởng thành hoàn toàn sau khi chết. Bất kỳ nỗ lực nào để chuyển dời trước Đối tượng C ra khỏi hồ nước sẽ dẫn đến làm nó tử vong do phù phổi, và việc không thực hiện chính xác Quy trình 4059-Chemosh theo bất kỳ cách nào sẽ dẫn đến biến dạng nghiêm trọng và cuối cùng là cái chết của Đối tượng C ngay sau khi sinh.
Phụ lục 4059-2: Các mục tóm tắt được tìm thấy trong SCP-4059-3 ( dịch từ tiếng Ba Lan)
12 tháng 4 năm 1894
Có lẽ các trưởng lão đã đúng. Có lẽ chúng ta không nên từ chối những lề lối cũ và nhổ nước bọt vào mặt truyền thống. Các vị thần chắc đang cười vào mặt chúng tôi, đang cười vào mặt tôi. Tôi đã ngu ngốc đến mức nào khi hy sinh sự trong sạch trong dòng máu thiêng liêng của mình cho tình yêu? Bạn bè của tôi đã ngu ngốc đến mức nào khi làm điều tương tự? Chúng tôi đáng ra không nên phỉ nhổ vào truyền thống, vào những phước lành được ban tặng cho dân tộc tôi bởi chính bản thân Đại pháp quan Ion, và dù biết sẽ gặp quả báo, nhưng chúng tôi vẫn bất chấp.
Vùng đất bị nguyền rủa này không phải là một nơi thịnh vượng như chúng ta từng tin. Đất đai nơi đây thì vô dụng. Không có gì sẽ mọc được trong khu rừng toàn đất sét khắc nghiệt, cũng như trong cát khô của các bãi biển ở nơi này. Tất cả những gì chúng ta có thể làm để tồn tại là săn bắn, câu cá và buôn bán với một thị trấn gần đó để lấy thực phẩm. Khó khăn này, tôi sợ, là lời nguyền của chúng tôi.
Bất chấp những sai lầm đó, tôi tin rằng một món nợ như vậy có thể trả được. Dù cho bị những người chúng ta yêu quý bỏ rơi và đuổi đến vùng đất này, có lẽ chúng tôi có thể chuộc lỗi và bắt đầu lại bằng cách đòi lại lãnh thổ này cho xác thịt. Tôi phải gặp những người bạn đồng hành của mình để thảo luận về việc phát triển hơn nữa dòng dõi của chúng ta. Ngay cả với sự ô uế, nó có thể làm hài lòng các Vultaas để bắt đầu lại một lần nữa, hãy gieo trồng những hạt giống cổ xưa của chúng ta ở đây để chúng ta lại có thể sinh sôi nảy nở.
30 tháng 11 năm 1894
Mặc dù đã rất cố gắng gần một năm nay, nhưng không ai trong số chúng tôi có thể thụ thai. Tôi sợ rằng những nỗ lực của chúng tôi để sinh ra những đứa trẻ mang dòng máu không tinh khiết đã xúc phạm tới Thần mong ước, một quả báo cho sự ô uế của chúng ta. Tôi đã chú ý đến hoàn cảnh khốn khổ này bốn ngày trước và yêu cầu gia tộc của tôi suy nghĩ cách giải quyết nó. Hôm nay, tôi được hỏi liệu tôi có nhớ những câu chuyện về những người thợ dệt xác thịt thần thánh không. Theo những người lớn tuổi, họ có khả năng uốn cong cơ và xương của mình theo ý muốn bằng cách thành thạo lihakut’ak, điều này cho chúng tôi một ý tưởng. Những người bạn đồng hành của tôi dường như nghĩ rằng chúng tôi có thể sử dụng những nghi thức thiêng liêng đó để phá bỏ lời nguyền và thanh tẩy dòng dõi của chúng tôi với những đứa con được ban phước. Có lẽ họ đúng. Chúng tôi sẽ phải thảo luận thêm về vấn đề này, và tham khảo thêm những tài liệu mà chúng tôi đã mang theo khi đi đày.
11 tháng 1 năm 1895
Nó đã được thực hiện. Đêm qua là ngày rằm; cơ hội đầu tiên để thực hiện huyết thệ của chúng tôi. Mỗi người đều dành cả đêm gột sạch tâm trí của mình của mình, tự hỏi liệu điều này có đáng không. Nó khiến tôi băn khoăn - liệu có nên cố gắng làm sống lại một thứ đã chết không? Chúng tôi đã làm cho gia đình thất vọng và phỉ nhổ lên mồ mả của tổ tiên tôi bằng sự phản bội của chúng tôi. Hy vọng tôi không quá lạc quan nếu cho rằng những tội lỗi này có thể được tha thứ? Chúng ta là ai mà với tư cách là những kẻ bị ruồng bỏ dám tự mình khai sinh ra một triều đại mới? Dù sao đi nữa, chúng tôi sẽ sớm biết được liệu các vị thần ban phước cho chúng tôi không.
26 tháng 2 năm 1895
Có vẻ như lời cầu nguyện của chúng tôi đã được đáp lại. Chúng tôi giờ đây xin hiến dâng cốt nhục của mình cho các vị thần. Mặc dù trải qua nhiều kiếp nạn, tất cả những người phụ nữ trong tổ cộng của chúng tôi đã tràn đầy sức sống sau lần đầu tiên thực hiện các nghi thức. Những thế lực mạnh mẽ đang hiển linh, và họ sẽ cho chúng ta cơ hội để tiếp nối di sản của tổ tiên trong nhiều năm tới.
3 tháng 10 năm 1895
Cuối cùng những người phụ nữ cũng sinh con, và rõ ràng là còn rất nhiều việc phải làm. Bọn trẻ không phải là phù thủy quyền năng thành thạo lihakut'ak như mong đợi, mà thay vào đó là những chiếc vỏ rỗng bị vỡ vụn và xoắn nát. Chúng chết trước cả khi kịp hít hơi thở đầu tiên, và vì vậy chúng tôi chẳng còn gì cả. Tuy nhiên, để thực hiện lời hứa của mình với các vị thần, chúng tôi phải kiên trì. Chúng tôi phải cải thiện các nghi thức cho đến khi chúng ta sinh ra những đứa trẻ vĩ đại và khủng khiếp để chúng có thể lên ngôi và tôn vinh tổ tiên Karcists thần thánh của chúng ta.
Ghi chú của bản dịch: Mười hai năm tiếp theo của tài liệu là chi tiết các thay đổi đối với Quy trình 4059-Chemosh, cũng như các mô tả ngắn gọn về kết quả của các sự thay đổi đó, dẫn đến lần thử thứ mười ba và cũng là cuối cùng của quy trình. - Ts. Lavey
9 tháng 10 năm 1908
The Devourer sẽ tận hưởng ngày này. Khi chúng tôi mới được ban phước và có con, tôi đã ngu ngốc nghĩ rằng lưu đày là đã đủ cho tội lỗi của chúng tôi, và bây giờ chúng tôi phải trả giá đắt cho sự ngạo mạn của mình. Tiệc thánh đã thành công, đúng như sự tính toán của chúng tôi. Nhưng niềm vui nhanh chóng biến thành nỗi kinh hoàng khi lũ trẻ trồi lên khỏi mặt nước như những con thú, không nhận ra người thân của mình. Cơ thể của chúng bị kéo giãn và xoắn lại khi chúng phát triển các đặc điểm không tự nhiên. Đôi cánh xé rách da lưng và cặp sừng mọc ra từ trán. Khuôn mặt của chúng biến dạng thành dê còn móng tay thì cong thành những cái móng vuốt chết người. Mỗi đứa đều phát ra một tiếng thét kinh hoàng khi chúng vươn vai thức dậy.
Sau đó, chúng nhìn thấy chúng tôi đang đứng đó, bị đông cứng vì kinh ngạc và sợ hãi. Những con thú tàn sát mẹ của chúng với cơn thịnh nộ dữ dội và tương tự như vậy cũng giết luôn cha của chúng. Tôi liền bỏ chạy như một kẻ hèn nhát. Tôi chạy khỏi ngôi nhà, khỏi vợ, và khỏi đứa con quái dị của mình. Tôi chạy khỏi cái âm thanh xẻ thịt và những tiếng la hét quỷ dị đó.
Ghi chú của bản dịch: Đây là những ghi chép cuối cùng trong SCP-4059-3. Điều tra viên của Tổ Chức đã tìm thấy hồ sơ cho thấy Japhet Bartosiewicz đã sống ở thị trấn Leeds Point trong những năm sau sự kiện được mô tả trong SCP-4059-3. Có giả thuyết cho rằng Bartosiewicz đã hòa nhập vào cộng đồng Leeds Point và sống ở đó cho đến cuối đời. - Ts. Lavey