-
Thông tin
Viết bởi bigslothonmyface
Độc giả cũng có thể thưởng thức các tác phẩm khác của tôi
SCP-6502 — Nghĩa Trang Harwick
SCP-6250 — Keystone Flats
SCP-6622 — Beaver Power
THÔNG BÁO CỦA PHẦN MỀM GIÁM SÁT NHẬN THỨC
Quyền truy cập tài liệu này đã được giới hạn cho nhân sự với cấp độ an ninh 4-6002. Ngay sau khi bạn bắt đầu truy cập tài liệu, Phần mềm Giám sát Nhận thức ARK_cm771 của Tổ Chức sẽ được chèn vào tiềm thức của bạn. Thông qua việc tiếp tục đọc, bạn đã đồng ý cho phép ARK_cm771 theo dõi danh tính, vị trí, chuyển động mắt và cơ thể, cùng với các dấu hiệu sinh trắc học trong tối đa 72 giờ tiếp theo. Nhân sự truy cập trái phép tài liệu này có thể sẽ phải chịu các hình thức kỷ luật bao gồm áp chế nhận thức và xử tử từ xa.
.
.
.
.
CHÈN PHẦN MỀM THÀNH CÔNG. ĐANG CẤP QUYỀN…
.
.
.
.
DẤU HIỆU SINH TRẮC HỌC ĐƯỢC CHẤP THUẬN. CHÀO MỪNG, TS. WILDCAT.
ĐANG TRUY CẬP TÀI LIỆU…
.
.
.
.
.
.
Mã Vật thể: SCP-6002
Phân loại: Thaumiel Keter
Quy trình Quản thúc Đặc biệt: Tính tới ngày 18 tháng Năm năm 2021, quy trình quản thúc chính cần tập trung vào việc kiểm soát sự lây lan của SCP-6002-B trước khi lớp Mammalia, hay cụ thể là hệ gen của loài Homo sapiens bị ảnh hưởng. Tán lá của SCP-6002 cần được kiểm tra định kỳ để phát hiện dấu hiệu của SCP-6002-B. Trong trường hợp SCP-6002-B được phát hiện đã lây nhiễm đến một khu vực mới thuộc cấu trúc nói trên, cần thông báo cho Giám đốc Dự án 6002-ARK, Ts. Rose Wildcat, ngay lập tức. Khu vực đã lây nhiễm cần bị cắt bỏ, và ĐĐNCĐ Nu-45 (“Kế Thừa Ngọn Gió”) cần được huy động để kích hoạt giao thức che đậy sự việc.
Cần duy trì rào chắn xung quanh khu vực có bán kính 15 kilômét tính từ SCP-6002. Để ngăn chặn việc dị thể bị quan sát từ trên không, đặc vụ của Tổ Chức hoạt động trong các cơ quan kiểm soát không lưu trên toàn cầu cần chỉ đạo phương tiện hàng không di chuyển theo hướng tránh khỏi dị thể, nếu khu vực bị ngăn chặn nằm trên đường bay của phương tiện. Trong trường hợp dị thể bị các nhóm đối tượng ngoài phạm vi cho phép phát hiện, ĐĐNCĐ Nu-45 cần triển khai ngay việc bắt giữ và cấp thuốc lú cho mọi cá nhân có liên quan. Do SCP-6002 đã và đang thường xuyên là một mục tiêu của nhiều Thế lực Đáng lưu tâm, việc sử dụng vũ lực là được phép trong trường hợp các cá nhân bị phát hiện có hành vi phản kháng lại quá trình bắt giữ.
Tính tới ngày 12 tháng Sáu năm 2014, toàn bộ ban chỉ huy O5 đã nhất trí cấm hoàn toàn việc thử nghiệm trên SCP-6002, ngoại trừ các thử nghiệm có mục tiêu rõ ràng là ngăn chặn sự lây nhiễm của SCP-6002-B.
Mô tả: SCP-6002 là một cấu trúc sống khổng lồ nằm bên trong Rừng Quốc gia Klamath ở phía Bắc bang California. SCP-6002 có vẻ bề ngoài giống với một cá thể cây cự sam (Sequoiadendron giganteum) thông thường. Dù vậy, SCP-6002 có kích thước lớn hơn nhiều so với một cá thể điển hình của loài nói trên. Bán kính gốc cây là 91 mét, và điểm cao nhất trên ngọn cây nằm cách 809 mét so với mặt đất.
Quá trình giải trình tự DNA đã cho thấy các khu vực khác nhau trên cấu trúc SCP-6002 mang vật chất di truyền khác nhau. Các trình tự gen có điểm tương đồng trên SCP-6002 được nhóm lại theo cách tương tự như một “cây sự sống” khi được hiểu theo nghĩa sinh học; người đọc có thể xem Biểu đồ Minh họa 6002-1 để quan sát một phần bản đồ hệ gen SCP-6002. 14 phần trăm trong số các mẫu vật chất di truyền tách chiết từ SCP-6002 đã được xác nhận là trùng khớp với các sinh vật sống đã biết, bao gồm cả các dạng sống dị thường và không dị thường. Các mẫu vật khác không khớp với bất cứ thể sống nào đã được biết đến, và được cho là đại diện cho các loài hiện vẫn chưa được phát hiện trên Trái Đất. Nói một cách tổng quát, khả năng cao SCP-6002 có chứa hệ gen của mọi vật thể sống ở các vị trí trên cành cây của nó. Các biến dị trong hệ gen của dị thể không ảnh hưởng đến vẻ bề ngoài hay tính chất vật lý của nó; các tính chất này luôn tương đồng với loài Sequoiadendron giganteum.
Việc loại bỏ hoặc chỉnh sửa vật chất di truyền có nguồn gốc từ SCP-6002 sẽ ảnh hưởng đến các sinh vật mang loại vật chất di truyền đó. Ví dụ, trong trường hợp phần sinh khối có vật chất di truyền trùng khớp với loài sếu đồi cát (Antigone canadensis) trên SCP-6002 bị thay đổi cấu trúc di truyền, mọi cá thể sếu đồi cát còn sống sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi này. Điều này đã khiến cho những tổn thương và thay đổi nhỏ về mặt cấu trúc của SCP-6002 có thể bị phóng đại đồng thời trên nhiều sinh vật sống.
Kể từ năm 2014, SCP-6002 đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi một căn bệnh lây nhiễm dị thường về mặt di truyền. Căn bệnh lây nhiễm này, với mã định danh là SCP-6002-B, là kết quả của [DỮ LIỆU BỊ XÓA—XEM TÀI LIỆU:ARK_6002-B]. SCP-6002-B đã gây tổn hại trầm trọng cho SCP-6002. Giống như mọi thay đổi khác về mặt cấu trúc, những tổn thương gây ra bởi SCP-6002-B cũng ảnh hưởng tới các sinh vật khác có vật chất di truyền trùng khớp với các vùng bị lây nhiễm. Điều này đã dẫn tới kết quả là sự tuyệt chủng của ít nhất 56,000 loài, tính tới thời điểm hiện tại.
SCP-6002-B có tính chống chịu cực kỳ cao, và phần lớn các nỗ lực nhằm kiểm tra mức độ lây lan của nó đã thất bại. Cách thức duy nhất đã được biết tới để quản thúc SCP-6002-B là cắt bỏ hoàn toàn vùng bị lây nhiễm. Việc Tổ Chức cố tình loại bỏ các vùng này đã dẫn tới kết quả là loài [DỮ LIỆU BỊ XÓA] bị tuyệt chủng. Dù vậy, tuy rằng việc loại bỏ các vùng bị lây nhiễm có thể làm chậm lại quá trình lây lan của SCP-6002-B, sự lây nhiễm này không thể được ngăn chặn hoàn toàn. Các nhà sinh vật học của Tổ Chức đã ước tính rằng SCP-6002-B sẽ lây lan tới khu vực mang hệ gen của loài Homo sapiens muộn nhất là vào năm 2100, và căn bệnh lây nhiễm này sẽ hủy hoại hoàn toàn tán lá của SCP-6002 trong vòng 300 năm.
.
.
.
.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
Hồi tôi còn học lớp năm, tôi từng kể mẹ nghe rằng mình muốn trở thành một phi hành gia. Mẹ đã nói với tôi, “Rosie, con yêu, con đừng rời bỏ hành tinh này. Nơi đây cần con.”
Hình như câu nói khi ấy của mẹ đã khiến tôi bực tức. Nhưng về sau tôi nhận ra, câu nói ấy không mang hàm ý cấm cản hay đặt ra luật lệ. Đó là một nhận định đầy niềm tin mà người mẹ Anh-điêng ấy dành cho đứa con gái nhỏ của mình. Cũng đáng nói đấy chứ, phải không? Chúa ơi, điều đó không gây áp lực cho tôi hay gì cả, nhưng—ôi sức nặng của thế giới chết tiệt này.
CẢNH BÁO CỦA PHẦN MỀM GIÁM SÁT NHẬN THỨC: ĐÃ PHÁT HIỆN TÀI LIỆU BỊ CHỈNH SỬA BẤT THƯỜNG. HÀNH VI CỦA BẠN SẼ ĐƯỢC GHI LẠI BỞI ARK_cm771.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
Mả cha mày, RoboCop. Tao muốn ban chỉ huy thấy được chuyện này. Người ta sẽ chẳng bao giờ dùng quyền lực của bản thân để tước đi lợi ích mà chính mình đang thụ hưởng đâu.
Phụ lục 1: Lịch sử & phát hiện
Bình luận của Ts. Rose Wildcat, giám đốc, Dự án 6002-ARK
Khái niệm về "Cây Sự sống" đã xuất hiện rộng rãi trong suốt lịch sử loài người, từ Cây Sự sống của Cơ Đốc Giáo trong Vườn Địa đàng tới Cây Tule của người Aztec và Yggdrasil của người Bắc Âu; những tạo vật này đều gắn liền và bao hàm mọi sự kiến tạo trên thế gian. Quan niệm trước đây cho rằng những tái trình hiện này không có mối liên hệ nào với nhau, tuy nhiên phân tích đã cho thấy những điểm tương đồng giữa rất nhiều phiên bản của Cây Sự sống và SCP-6002. Các mô hình tương đồng bao gồm hình dạng và số lượng cành cây, kích thước tương đối của thân cây và tán lá, thậm chí nơi xuất hiện các khiếm khuyết trên cây cũng được xác định là trùng khớp với nhau. Hiển nhiên ta có thể khẳng định rằng có rất ít khả năng những thợ thủ công chạm khắc đá người Assyria từ thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên đã từng quan sát SCP-6002 hay biết đến sự tồn tại của nó, vì vậy nguyên nhân của những điểm tương đồng này hiện chưa rõ.
Dù vậy, các tác phẩm nghệ thuật và truyện kể dân gian lưu truyền trong cộng đồng dân cư bản địa ở nơi hiện nay là Bờ Tây Hoa Kỳ đã trực tiếp nhắc tới SCP-6002—cụ thể là các bộ lạc Klamath ở phía Bắc California. Người Klamath đặt tên cho tạo vật này là "Vúluandsham." Cư dân bản địa đã biết đến sự tồn tại của SCP-6002 từ hàng ngàn năm trước khi Tổ Chức tiến hành quản thúc dị thể, và thậm chí có thể đã sở hữu hiểu biết về dị tính của nó. Khả năng cao những cư dân này hiểu được tầm quan trọng của dị thể, và đã xây dựng nơi ở bên trên hay xung quanh SCP-6002.
Một thảm kịch đã tác động mạnh lên hiểu biết của chúng ta về tạo vật này, khi quá trình quản thúc ban đầu mà Tổ Chức áp dụng lên SCP-6002 đã xóa bỏ sự hiện diện của nó khỏi dòng chảy lịch sử của những người dân bản địa đã canh gác nó bao đời nay. Thông qua một hiệp ước với các bộ lạc Klamath, Tổ Chức đã có thể tiếp cận SCP-6002 với mục đích nghiên cứu ban đầu. Dù vậy, hiệp ước này đã bị vi phạm không lâu sau đó khi Tổ Chức bắt đầu "chiếm hữu" vùng đất xung quanh SCP-6002. Cách tiếp cận được sử dụng là vô cùng tàn bạo: phần lớn dân cư tại khu vực này đã bị giết hại, và những người còn sống sót đã bị buộc sử dụng "thuốc lú" theo nghĩa sơ khai, trong đó phần lớn các trường hợp phải trải qua phẫu thuật thùy não. Mọi công trình nhà ở trong khu vực xung quanh SCP-6002 đã bị thiêu rụi. Để che đậy dấu vết của những sự việc này sau vài thập kỷ, Tổ Chức đã tự tiêu hủy các tài liệu liên quan đến hoạt động quản thúc của mình trước năm 1910. Những hành động táng tận lương tâm nêu trên đã để lại một vết nhơ đẫm máu không thể xóa nhòa trong lịch sử hoạt động của tổ chức này.
Phụ lục 2: Thử nghiệm ban đầu
Tháng Mười một năm 1910: Bắt đầu nghiên cứu dị tính của SCP-6002 thông qua việc di chuyển vào bên trong tán cây. Điểm Tạm thời-1 đã được xây dựng ngay phía dưới tán cây, cho phép các nghiên cứu viên ở lại trong tán cây nhiều ngày mà không cần di chuyển về mặt đất.
Trích đoạn từ nhật ký của Ts. Albert Manfred, trưởng dự án SCP-6002, 1910-1930
12 tháng Mười một, 1910
Cái cây phát triển nhanh đến mức đáng báo động. Tôi và Verna chỉ rời mắt khỏi cái thang trong vài phút để chụp ảnh thôi, vậy mà khi chúng tôi quay lại, tán lá đã lấp kín cái thang rồi. Vậy nhưng phần lớn những cành lá mới này cũng héo úa ngay lập tức. Tôi tự hỏi, điều gì xác định liệu một nhánh cây sẽ trụ lại hay chết đi? Có phải là bản thân cái cây không?
1 tháng Mười hai, 1910
Có một cú sốc ngày hôm nay. Khi đang đi dọc theo một cành cây ở cách nơi cắm trại khoảng 20 phút đi bộ, chúng tôi đột nhiên nghe thấy thứ tiếng động khủng khiếp nhất trên đời. Một âm thanh nghe như tiếng xé toạc, vang vọng khắp nơi, dã man đến kinh người, như thể phát ra từ một linh hồn bên bờ địa ngục. Một lát sau, một cành cây khổng lồ—có lẽ phải dài tận 200 feet—rụng khỏi thân cây ở phía trước chúng tôi khoảng một phần tư dặm. Chúng tôi chính mắt trông thấy nó rơi từ trên cao xuống đất. Khi chúng tôi đến đó, trên thân cây chẳng có dấu hiệu khối u hay vết gãy cành nào cả. Chỉ có thân cây gỗ đỏ au, như thể chưa từng có cành cây nào mọc lên tại đó. Chúng tôi đã quyết định gắn chặt bản thân mình vào thân cây chính bằng dây thừng và áo giáp trong tất cả những chuyến khám phá về sau. Lỡ như chúng tôi đang đứng trên cành cây ấy đúng lúc nó rơi xuống thì…
10 tháng Mười hai, 1910
Tôi hoàn toàn không thể tin nổi rằng cái cây này thực sự là một cái cây. Khi tôi đưa tay vuốt qua cành lá của nó, cảm giác cứng như gỗ không phải điều mà tôi nhận thấy. Đôi khi tôi nhất mực đinh ninh rằng mình đang chạm vào lông, hay vảy, hay da. Nhưng khi nhìn đến nó, tôi chẳng thấy được gì ngoài gỗ. Và còn cả những âm thanh nữa. Trong những đêm thao thức, tiếng gió thổi len giữa những cành cây nghe giống tiếng hú hơn bất cứ thứ gì.
Tháng Chín năm 1914: Sự cố 6002-E-243. Cá thể còn sống duy nhất của loài bồ câu viễn khách (Ectopistes migratorius) đã mất trong trạng thái được nuôi nhốt ở Vườn thú Cincinnati. Chính xác vào thời điểm đó, SCP-6002 rụng một cành lớn ở rìa phía tây bắc của tán lá. Ts. Manfred đã đưa ra một giả thuyết về mối liên hệ giữa hai sự kiện này.
Tháng Hai năm 1917: Các nghiên cứu ngoài phạm vi quản thúc SCP-6002 đã cung cấp thêm cho Tổ Chức hiểu biết về quy trình giải trình tự gen. Trong vòng năm năm sau đó, nghiên cứu này đã cho phép Ts. Manfred khẳng định rằng cành cây rụng trong Sự cố 6002-E-243 có vật chất di truyền tương đồng với loài Ectopistes migratorius.
Tháng Bảy năm 1924: Sự cố 6002-A-001. Trường hợp đầu tiên một loài bị con người ảnh hưởng thông qua SCP-6002.
Trích đoạn từ nhật ký của Ts. Albert Manfred, trưởng dự án SCP-6002, 1910-1930
9 tháng Bảy, 1924:
Có một tai nạn xảy ra hôm nay. Suốt cả chiều nay, tôi và Verna đã làm việc ở rìa tán lá phía nam. Tôi đã trượt chân khi chúng tôi chuẩn bị trèo xuống. Ngay khi thấy mình chực ngã, tôi đã bám vào một cành cây ngay trên đầu để đứng vững trở lại. Giá mà lúc ấy tôi biết trước. Cành cây nhỏ ấy mới mọc thôi, có lẽ chỉ dài nhiều nhất là 10 feet. Nó gãy ngay khi bị tôi túm lấy. Ơn Chúa, lúc đó tôi vẫn còn đeo dây bảo hộ, bằng không thì tôi đã tiêu đời rồi.
Verna càm ràm tôi một tràng vì đã làm gãy cành cây, nhưng tôi bảo cô ấy nên coi đó là một cơ hội. Chúng tôi chưa bao giờ thử tách một cành còn sống khỏi cây, mà chỉ từng nghiên cứu những cành cây tự rụng, và những cành ấy thì đều đã khô đét trước khi rơi xuống đất. Tôi vẫn luôn chờ đợi cơ hội để xem thử một cành khi lá còn xanh.
Chắc chỉ là do adrenaline thôi, nhưng tôi thề rằng mình đã nghe thấy một âm thanh nối tiếp ngay sau tiếng cành cây gãy. Một tiếng rít cao, nghe ăng ẳng. Ai biết được đâu cơ chứ. Verna bảo rằng cô ấy chẳng nghe thấy gì.
11 tháng Bảy, 1924:
Cuối cùng tôi cũng tìm được một hệ gen trùng khớp với cành cây tôi bẻ gãy vài ngày trước. Phải đối chiếu một lần nữa với cơ sở dữ liệu rồi tôi mới có thể khẳng định, nhưng tôi đã thấy những dấu hiệu của loài Canis lupus familiaris, cụ thể là một giống chó săn phổ biến trong những năm gần đây: Chó sục Manhattan. Đáng yêu lắm, mấy chú cún ấy. Hồi tôi còn nhỏ, trong nông trại cạnh nhà tôi có hẳn một đàn. Tôi chưa từng thấy giống chó nào biết đuổi bắt sóc hay đến vậy. Tiếng sủa của chúng có thể nghe thấy từ cách xa hàng dặm. May mà lần này sẽ không có loài nào tuyệt chủng. Tôi chẳng biết giờ tôi phải báo tin này với cả đội như thế nào. Nhưng với tốc độ sinh trưởng của 6002, có lẽ cành cây ấy đã mọc lại rồi.
19 tháng Bảy, 1924:
Verna bắt đầu khóc ngay khi nghe tin lúc tối qua, và vẫn khóc đến tận giờ. Tôi chỉ có thể làm vậy để mọi người không nản chí mà thôi. Cầu Chúa tha thứ cho tôi.
Tôi đã làm gì vậy chứ?
Tôi đã làm gì vậy chứ?
Tháng Bảy năm 1924–Tháng Mười một năm 1929: Sau sự cố do Ts. Manfred gây ra, giống chó sục Manhattan trên toàn thế giới bắt đầu chết hàng loạt. Các cá thể vốn khỏe mạnh đột ngột phát bệnh ngừng tim, đột quỵ, cũng như các chứng bệnh khác. Các cá thể giống cái đều không thể sinh ra đời con hữu thụ. Tính tới ngày 1 tháng Hai năm 1926, giống chó này đã được công nhận là tuyệt chủng. Để che đậy sự kiện này, các đặc vụ của Tổ Chức đã tiến hành một chiến dịch lan truyền thông tin giả, với trọng tâm là xóa bỏ các ghi chép và ký ức về giống chó sục Manhattan. Chiến dịch này kéo dài năm năm, và đã được xác nhận là triển khai thành công vào ngày 4 tháng Mười một năm 1929.
Tháng Một 1930: Sau Sự cố 6002-A-001, Ts. Manfred đã cập nhật quy trình quản thúc của SCP-6002 nhằm ngăn chặn mọi thí nghiệm liên quan tới cấu trúc thân cây và chỉ cho phép leo cây đối với các nhân sự đã qua huấn luyện sử dụng dụng cụ leo trèo.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
Phải rồi, quả thực tôi chưa từng nghe đến chó sục Manhattan bao giờ. Ngay từ hồi đó, đã có một việc mà chẳng ai làm tốt hơn Tổ Chức rồi: trốn tránh trách nhiệm.
Có vẻ ít nhất thì Tiến sĩ Manfred cũng làm được một điều đúng đắn—ông ta cấm hẳn việc thử nghiệm trên cây. Cầu Chúa ban phước cho bộ xương khô của ông ta, vì ông đã làm hết phận sự để ngăn cái tổ chức vĩ đại này tự đào hố chôn mình. Này Tiến sĩ, nếu ông nghe được lời tôi nói từ trên đó, đừng tự dằn vặt mình nhiều quá. Mất một loài chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ thôi mà. Chắc hẳn vài thằng lính quèn mang theo lều săn và mấy viên kẹo đồng là thừa đủ để giải quyết chuyện này rồi.
CẢNH BÁO CỦA PHẦN MỀM GIÁM SÁT NHẬN THỨC: ĐÃ PHÁT HIỆN TÀI LIỆU TIẾP TỤC BỊ CHỈNH SỬA BẤT THƯỜNG. DẤU HIỆU SINH TRẮC HỌC CỦA BẠN ĐÃ ĐƯỢC BAN CHỈ HUY O5 GHI LẠI.
Phụ lục 3: Các thử nghiệm gần đây
Việc thử nghiệm trên SCP-6002 vẫn tiếp tục bị cấm trong phần lớn những năm tiếp theo của thế kỷ 20. Dù vậy, năm 1989, một đội ngũ nghiên cứu mới đã được thành lập với mục tiêu lập bản đồ di truyền hoàn chỉnh của SCP-6002. Các nghiên cứu viên phụ trách bao gồm:
Nghiên cứu viên Cấp cao Ts. Eugene Muller, trưởng dự án
Nghiên cứu viên Cấp thấp Ts-Bs. Amara Achebe, chuyên ngành di truyền học
Nghiên cứu viên Cấp thấp Ts. Rose Wildcat, chuyên ngành sinh thái học
Các Tiến sĩ Muller, Achebe và Wildcat đã giám sát một đội ngũ nhân sự hàng trăm người, với nhiệm vụ xây dựng thành công bản đồ di truyền hoàn chỉnh của SCP-6002 trước năm 2000. Họ đã hoàn thành nhiệm vụ đúng tiến độ.
Vào tháng Ba năm 2002, Ts. Muller đã đưa ra đề xuất thử nghiệm biến đổi hệ gen của SCP-6002.
19 tháng Ba, 2002
Từ: Ts. Eugene Muller
Đến: Văn phòng O5-8
Với việc dự án lập bản đồ hệ gen 6002 của tôi đã thành công, tôi mong muốn được cấp phép để thử nghiệm phản ứng của cái cây đối với những thay đổi di truyền nhỏ. Nói một cách tóm tắt, tôi hiện có kế hoạch sử dụng một loài nấm làm vật thử nghiệm, và áp dụng những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực liệu pháp gen của Ts. Achebe. Tôi không yêu cầu được cấp thêm kinh phí; lượng kinh phí ngài đã phân bổ cho chúng tôi là quá đủ. Nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, tôi hi vọng có thể trình lên ngài một bản báo cáo trong năm nay.
Ts. Eugene S. Miller, PhD
Nghiên cứu viên Cấp cao
Trưởng Dự án SCP-6002
23 tháng Ba, 2002
Từ: Văn phòng O5-8
Đến: Ts. Eugene Muller
Cảm ơn tin nhắn của anh, tiến sĩ. Chúng tôi đều hài lòng với kết quả mà đội ngũ của anh đưa ra cho tới thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, kết quả thu được từ những tác động khác đối với 6002 sẽ không xứng đáng với rủi ro chúng ta phải đối mặt. Anh hãy tiếp tục nghiên cứu của mình, với mục đích tìm hiểu cách thức để bảo tồn dị thể ở trạng thái như hiện tại. Đề xuất của anh đã bị từ chối.
8
23 tháng Ba, 2002
Từ: Ts. Eugene Muller
Đến: Văn phòng O5-8
Với sự tôn trọng, 8, suy nghĩ này của ngài thật thiển cận. Chúng ta sẽ được lợi gì nếu chỉ bình chân như vại đây, trong khi chúng ta đang sở hữu công cụ nghiên cứu khoa học và y khoa có tiềm năng nhất trong lịch sử? Tôi không thấy có hiểm họa gì trong việc chọn ra một loài—chỉ một loài thôi, và loài ấy thậm chí còn không là gì đáng kể—và xem xét những khả năng có thể xảy ra. Ngài chỉ cần cho phép tôi làm điều đó thôi, và tôi sẽ không khiến ngài thất vọng đâu.
Ts. Eugene S. Miller, PhD
Nghiên cứu viên Cấp cao
Trưởng dự án SCP-6002
24 tháng Ba, 2002
Từ: Văn phòng O5-8
Đến: Ts. Eugene Muller
Tiến sĩ, ban chỉ huy O5 đã cân nhắc và từ chối đề xuất của anh. Đây là quyết định cuối cùng. Hơn nữa, tôi mong rằng anh sẽ cẩn trọng hơn với những ngôn từ mình nói ra. Nhìn chung, có rất nhiều nhân sự Tổ Chức mong muốn được thay thế vị trí của anh và tiếp tục công việc đúng như mệnh lệnh của Hội đồng đấy.
8
Tháng Bảy năm 2002: SCP-█████ đã vi phạm quản thúc tại Điểm-19 và xâm nhập vào một điểm dân cư lớn. 78 nhân sự Tổ Chức và khoảng 1,200 thường dân đã thiệt mạng trong sự cố này. SCP-█████ đã bị tiêu diệt sau 13 ngày kể từ khi nó vi phạm quản thúc. Đặc tính dị thường của nó cho phép dị thể tự tái tạo bên trong một quả trứng mà nó đã sinh ra khi bị tiêu diệt; quả trứng này đã được tái quản thúc.
Tháng Bảy năm 2002: Ban chỉ huy O5 đã ra lệnh vô hiệu hóa SCP-█████. Dù vậy, việc tác động lên dị thể khi nó ở dạng trứng đã khiến cho quả trứng bốc hỏa, và một quả trứng khác đã xuất hiện thay thế cho nó. Việc vô hiệu hóa SCP-█████ đã được xác định là bất khả thi.
Tháng Tám năm 2002: Ts. Muller tiếp tục yêu cầu tiến hành biến đổi hệ gen của SCP-6002, với mục đích được đưa ra là tăng hiệu quả quản thúc SCP-█████. Đề xuất đã bị từ chối thông qua bầu chọn của Ủy ban Đạo đức (với số phiếu 9-14), tuy nhiên ban chỉ huy O5 đã đảo ngược quyết định này. Việc thử nghiệm trên SCP-6002 được cho phép trở lại từ ngày 4 tháng Tám năm 2002.
Biên bản thử nghiệm 1
Đối tượng thử nghiệm: SCP-█████ (“thực thể”), và hệ gen của nó trên SCP-6002
Nghiên cứu viên giám sát: Ts. Eugene Muller
Nghiên cứu viên tham gia: Ts. Amara Achebe, Ts. Rose Wildcat
Thử nghiệm 1: Trước hết, các cơ chế di truyền điều khiển chu trình sinh sản của thực thể được tách rời khỏi bản thân nó. Các cơ chế này giống hệt với cơ chế ở các cá thể bò Bison châu Mỹ (Bison bison). Các cơ chế điều khiển chu trình sinh sản của thực thể cũng được cô lập trên SCP-6002 và chỉnh sửa cấu trúc di truyền để ngăn chặn sự sinh sản của dị thể. Cá thể đang được quản thúc đã bị tiêu diệt.
Kết quả: Thực thể tự tái tạo từ dạng trứng như bình thường. Thực thể xuất hiện khi trứng nở không có các cơ quan sinh dục.
Thử nghiệm 2: Các cơ chế điều khiển sự sinh trưởng của thực thể được tách rời khỏi bản thân nó. Khác với cơ chế sinh sản, những gen này khác hoàn toàn so với loài bò Bison châu Mỹ thông thường, cho phép dị thể có kích thước lớn hơn bình thường rõ rệt. Với sự trợ giúp của Ts. Achebe, các cơ chế điều khiển sự sinh trưởng của thực thể cũng được cô lập trên SCP-6002 và chỉnh sửa nhằm làm đình trệ sự sinh trưởng của thực thể không lâu sau khi nó được sinh ra. Cá thể đang được quản thúc đã bị tiêu diệt.
Kết quả: Thực thể tự tái tạo từ dạng trứng như bình thường. Dù vậy, thực thể không sinh trưởng theo thời gian, mà giữ nguyên kích thước bằng với một con bò Bison châu Mỹ mới sinh cho tới khi trưởng thành.
Ghi chú tổng kết: SCP-█████ được giáng cấp độ quản thúc từ Keter xuống còn Euclid. Ts. Muller được nâng lên Bậc Lương II và được tăng cường quyền hạn an ninh đối với thông tin trong phạm vi toàn bộ Tổ Chức để tiếp tục công việc với phương pháp thử nghiệm chéo giữa các SCP khác và SCP-6002.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
“Với sự trợ giúp” từ Ts. Achebe cái con khỉ khô. Amara đã làm mọi thứ. Herr Muller1 chỉ đứng nhìn và huyên thuyên rằng cô ấy đã may mắn thế nào khi được hắn ta "để ý đến công việc của mình" mà thôi.
Tối hôm đó tôi đã mua đồ uống cho cô ấy, và cuối cùng cô ấy cũng chịu tâm sự với tôi. Chúng tôi đã ở Điểm này cùng nhau được bao lâu nhỉ, 13 năm chăng? Và tôi còn chẳng biết gì về cô ấy, về gia đình, sở thích hay đường tình duyên, không một chút gì. Nhưng trời ơi, đêm đó cô ấy cứ nói liên hồi. Phần lớn là về Muller và việc hắn ta khốn nạn đến thế nào. Và cả những chuyện khác nữa. Mẹ cô ấy, mái ấm của cô ấy… Gu phụ nữ của cô ấy. Amara…
Tháng Chín năm 2002–Tháng Năm năm 2008: Ts. Muller đã làm suy yếu hoặc vô hiệu hóa 109 dị thể cấp Keter và 419 dị thể cấp Euclid thông qua biến đổi vật chất di truyền của SCP-6002. Không có hiệu ứng phụ nào liên quan tới cấu trúc của SCP-6002 được ghi lại.
Tháng Hai năm 2007–Tháng Một năm 2008: Hơn hai mươi tổ chức cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Hoa Kỳ tuyên bố phá sản. Giá nhà đất tăng vọt. Kinh tế thế giới rơi vào suy thoái.
Tháng Hai năm 2008: Hoa Kỳ và nhiều chính phủ khác trên thế giới cắt nguồn kinh phí của Tổ Chức. Sự việc này xảy ra cùng lúc với việc 31 công ty bình phong của Tổ Chức tuyên bố phá sản tái cấu trúc, dẫn tới việc dự trữ kinh phí hoạt động của Tổ Chức sụt giảm tổng cộng là 21%.
Tháng Năm năm 2008: Ts. Muller đề xuất tiến hành thử nghiệm biến đổi vật chất di truyền của SCP-6002 với mục đích thu lợi nhuận. Đề xuất được chấp thuận vào ngày 13 tháng Năm năm 2008.
Biên bản thử nghiệm: 2
Đối tượng thử nghiệm: SCP-6002, và nhiều loài sinh vật hiện còn sinh sống
Nghiên cứu viên giám sát: Ts. Eugene Muller
Nghiên cứu viên tham gia: Ts. Amara Achebe, Ts. Rose Wildcat
Thử nghiệm 1: Một nhóm cây táo thông thường (Malus domestica) được cho thụ phấn với nhau để tạo nên một dòng cây mới (Dòng 001) nhằm phục vụ mục đích thử nghiệm. Hệ gen của Dòng 001 xuất hiện trên SCP-6002 như dự tính. Vật chất di truyền của Dòng 001 trên SCP-6002 bị biến đổi để quả của cây có chứa những nguyên liệu từ SCP-500. Táo thu hoạch từ dòng cây này được bán ra thị trường, và được quảng bá là một phương thuốc thần thánh cho bệnh cảm cúm thông thường.
Kết quả: Táo thuộc Dòng 001 trở thành một giống táo được yêu thích rộng rãi trên thị trường sau hai tháng. Chúng có tác dụng làm giảm một số triệu chứng cảm cúm, nhưng không có hiệu quả cao hơn các loại thuốc acetaminophen thông thường.
Thử nghiệm 2: Một nhóm cá thể bò nhà giống Black Angus (Bos taurus) được cho lai với nhau để tạo một dòng bò mới (Dòng 002) phục vụ mục đích thử nghiệm. Hệ gen của Dòng 002 xuất hiện trên SCP-6002 như dự tính. Vật chất di truyền của Dòng 002 trên SCP-6002 bị biến đổi để thịt bò có chứa nguyên liệu từ SCP-1007.
Kết quả: Bò thuộc giống 002 biến đổi trở lại thành bê con sau khi bị giết thịt. Mỗi cá thể bò có thể bị giết thịt vô số lần mà không cần hao tổn chi phí cho thức ăn hay chuồng trại.
Thử nghiệm 3: Hệ gen của gà nhà (Gallus gallus domesticus) bị biến đổi trên SCP-6002 để làm xuất hiện một căn bệnh di truyền mới (Bệnh 001). Thuốc chữa Bệnh 001 được Tổ Chức sản xuất và chào bán tới các nông trại chăn nuôi sáu tháng sau khi căn bệnh xuất hiện.
Kết quả: 7% tổng số lượng gà trên thế giới đã chết trước khi phương thuốc của Tổ Chức được bán ra. Tổ Chức đã bán được 700 triệu liều thuốc chữa Bệnh 001 sau bốn tuần.
Phụ lục 4: Sự cố 6002-B-001
Vào ngày 11 tháng Tư năm 2009, Bệnh 001 đã ngừng xuất hiện ở gà con mới nở. Sau khi sự việc được xem xét, Nghiên cứu viên Cấp thấp Ts. Rose Wildcat bị phát hiện đã chỉnh sửa hệ gen của SCP-6002 mà không được cấp phép, dẫn tới việc Bệnh 001 bị loại bỏ và hệ gen của loài Gallus gallus domesticus trở về trạng thái ban đầu. Ts. Wildcat đã bị bắt giữ và tra khảo.
Người phỏng vấn: Ts. Eugene Muller
Đối tượng phỏng vấn: Ts. Rose Wildcat
Các cá nhân khác tham gia: Ts. Amara Achebe, Nhân viên Bảo vệ Marx, Nhân viên Bảo vệ Johnson
[Bắt đầu bản ghi]
Ts. Eugene Muller (Muller): Cô có biết tại sao cô ở đây không, Rose?
Ts. Rose Wildcat (Wildcat): Không. Lũ ngu si các người lôi tôi ra khỏi giường từ nửa tiếng trước, và vẫn chưa có ai thèm giải thích cho tôi bất cứ điều gì về chuyện này.
Muller: Rose, lần cuối cùng cô trèo lên 6002 là khi nào?
[Wildcat im lặng.]
Muller: Bé yêu à, đừng làm chuyện này khó khăn thế chứ.
Wildcat: Đừng có gọi tôi như vậy. Anh không đáng ngang hàng cha chú tôi đâu.
Muller: Trả lời câu hỏi đi, Rose.
Wildcat: Chứ anh nghĩ là lúc đéo nào? Anh là người xếp lịch, cho nên anh mới là người phải nói với tôi.
[Muller thở dài.]
Muller: Camera an ninh và dữ liệu truy cập bằng thẻ của cô cho thấy cô đã leo lên vào đêm qua.
Wildcat: Bỏ mẹ.
Muller: Cô có muốn xem không?
[Wildcat im lặng.]
Muller: Rose, tôi biết người non và xanh như cô rất khó chấp nhận việc chúng ta đang làm. Nhưng cô không thể tự—
Wildcat: Tôi đã làm việc ở đây 20 năm rồi.
Muller: Cô không thể tự ý quyết định điều gì là tốt nhất được! Cô có biết nếu như cô sai sót, chuyện gì có thể xảy ra không?
Wildcat: Ồ, ý anh là làm cho hàng tỉ con vật trên trái đất này cùng mắc phải một căn bệnh nguy hại chỉ sau một đêm hay sao?
Muller: Tôi sắp không chịu nổi thái độ của cô rồi đấy.
Wildcat: Địt mẹ mày.
Muller: …Thôi được. Tôi sẽ cho cô một cơ hội. Nếu cô xin lỗi tôi ngay lập tức, có thể tôi sẽ nói đỡ cho cô một lời trước các O5. Tôi không nghĩ họ sẽ xử nhẹ vụ này đâu, nhưng nếu tôi can thiệp, có thể cô sẽ được tha đấy. Tôi sẽ nhớ nụ cười của cô lắm nếu cô đi khỏi đây, tôi thừa nhận.
[Wildcat im lặng.]
Muller: Nói đi nào, cô gái. Đừng ngu ngốc thế.
Wildcat: …Cảm ơn anh, tiến sĩ. Tôi xin lỗi.
Muller: Đấy, có thế thôi mà. Có gì khó đâu? Chúng ta vẫn có thể cư xử với nhau đàng hoàng đấy thôi.
Ghi chú tổng kết: Theo như đề nghị của Ts. Muller, ban chỉ huy O5 đồng ý cho phép Ts. Wildcat giữ lại quyền hạn an ninh Cấp 1 và điều chuyển cô tới một vị trí xử lý công việc văn thư trong văn phòng của Ts. Muller, thay vì giáng cô làm nhân sự cấp D. Ts. Muller đã tiến hành biến đổi trở lại hệ gen của loài Gallus gallus domesticus trên SCP-6002, và Bệnh 001 tiếp tục xuất hiện trên gà nhà kể từ ngày 12 tháng Tư năm 2009.
Phụ lục 5: Các dự án ETERNAL và 6002-ARK
CHÚ Ý: CHỈ DÀNH CHO NHÂN SỰ CÓ QUYỀN HẠN CẤP 5-6002
Những tài liệu dưới đây mô tả các dự án được thực hiện bởi nhiều thực thể thuộc Tổ Chức trên phạm vi toàn cầu. Nhân sự chỉ được phép truy cập những tài liệu này trên cơ sở tìm kiếm thông tin cần thiết, và chỉ khi sở hữu quyền hạn an ninh cấp 5-6002. Việc xem các tài liệu này khi không có sự cho phép đúng quy trình sẽ dẫn đến hình thức kỷ luật là xử tử từ xa ngay lập tức thông qua Phần mềm Giám sát Nhận thức ARK_cm771.
-
- _
Tổng quan: Dự án 6002-ARK là một dự án phản gián, quân sự và bảo mật thông tin được Tổ Chức tiến hành từ ngày 12 tháng Sáu năm 2014 tới ngày 24 tháng Tư năm 2021. Mục tiêu của dự án là che giấu hoàn toàn sự tuyệt chủng của toàn bộ các loài thuộc một giới sinh vật (khoảng 1.3 triệu loài). Sự tuyệt chủng hàng loạt này được gây ra bởi SCP-6002-B, một căn bệnh di truyền truyền nhiễm xuất hiện trên SCP-6002. Căn bệnh truyền nhiễm này xuất hiện trong quá trình thử nghiệm thuộc Dự án VĨNH HẰNG, một nỗ lực của Tổ Chức nhằm loại bỏ sự lão hóa2 ở con người bằng cách sử dụng SCP-6002.
Cho tới ngày 24 tháng Tư 2021, trạng thái của Dự án 6002-ARK là: ĐÃ HOÀN THÀNH. Mọi hiểu biết về giới sinh vật Aeternae đã hoàn toàn bị loại bỏ khỏi hiểu biết của công chúng.
[TỆP: ARK_Aeternae]
Bình luận của Ts. Rose Wildcat, giám đốc, Dự án 6002-ARK
Bạn biết về hệ thống các giới sinh vật rồi đấy. Động vật, thực vật, vi khuẩn, những nhóm lớn bao trùm lấy muôn loài. Nếu bạn là một nhà sinh vật học, hẳn là bạn biết rằng có sáu giới sinh vật như thế. Có thể bạn sẽ nhớ rằng mình đã học được điều đó ở trường. Nhưng không phải vậy đâu. Bạn học được điều đó dưới sự can thiệp của Tổ Chức.
Chưa từng có lúc nào trên đời chỉ tồn tại sáu giới sinh vật cả—có tất cả là bảy giới. Animalia, động vật. Plantae, thực vật. Fungi, Protista, Archaea, Bacteria…và Aeternae.
"Huyền vật" là giới thứ bảy. Từ này có lẽ nghe xa lạ đối với bạn, nhưng trong phần lớn cuộc đời bạn, điều đó là không đúng. Từng có một thời bạn có thể nói ra từ này dễ dàng y như từ "động vật" vậy. Huyền vật sống cả trên mặt đất và dưới biển sâu. Có những loài vĩ đại và những loài tí hon. Có những loài người ta kinh sợ, có những loài người ta săn bắt, và người ta còn nuôi nấng nhiều loài hơn nữa như thú cưng và bè bạn. Tựu trung lại, có 1.3 triệu loài huyền vật còn sống trước ngày 12 tháng Sáu năm 2014. Không loài nào trong số đó hiện còn sống sót.
Đặc điểm: Huyền vật là các sinh vật nhân thực đa bào có kích thước trong khoảng .03–94 mét tính theo chiều dài và cân nặng trong khoảng .006–240,000 kilôgram. Chúng sống di động3, thường là sinh vật dị dưỡng4 (dù một số là sinh vật tự dưỡng5), và sinh sản hữu tính. Trong hệ sinh thái, huyền vật có vai trò tương tự như động vật, với các loài ăn thực vật là con mồi của những loài ăn động vật và ăn tạp có vị trí cao hơn chúng trong chuỗi thức ăn. Đáng chú ý, ở huyền vật không xảy ra quá trình lão hóa; chúng có khả năng chống chọi rất tốt với ung thư và các tổn thương tế bào khác.
Các loài điển hình minh họa:
Hatzegopteryx (Rapio maxima)
Hatzegopteryx là những sinh vật ăn thịt bậc cao biết bay được cho là hóa thạch sống từ kỷ Cretaceous muộn. Chúng là sinh vật biết bay lớn nhất từng sinh sống—các cá thể cái trưởng thành đã được quan sát thấy có sải cánh rộng tới trên 15 mét. Hatzegopteryx sinh sống chủ yếu ở những vùng đất cận nhiệt châu Phi, nhưng cũng có thể phân bố về phía Bắc tới tận Romania. Do chúng có thói quen bắt gia súc làm con mồi, chúng được coi là loài xâm hại ở nhiều nơi.
Rồng râu phát sáng (Draco ignis)
Loài rồng râu phát sáng khổng lồ là một sinh vật huyền thoại chỉ có thể được tìm thấy tại vùng núi Nepal và Tây Tạng. Vốn là loài cực kỳ nguy cấp từ những năm 1950, loài rồng này bị săn bắt tới mức gần như tuyệt chủng để lấy vảy; tương truyền, vảy của chúng vừa có màu sắc lấp lánh vừa có thể được dùng làm thuốc. Trái ngược với kích thước cơ thể lớn của mình, rồng râu phát sáng là sinh vật tự dưỡng, và thường ngủ dài suốt phần lớn thời gian trong ngày để thu thập năng lượng.
Vĩ ngà (Duro scrofa)
Chẳng loài vật nào có thể canh giữ gia súc tốt hơn vĩ ngà, một loài vật bốn chân hiền lành sống gần gũi và sẵn sàng bảo vệ con người, động vật và cả những huyền vật khác. Các bằng chứng cho thấy vĩ ngà—loài vật được đặt tên theo cặp ngà lớn rụng và mọc lại hàng năm của chúng—đã được thuần hóa sớm nhất từ năm 5,000 trước Công nguyên. Vĩ ngà là một trong những loài huyền vật thông minh nhất, với khả năng học hỏi tới 200 mệnh lệnh khác nhau.
[TỆP: ARK_ETERNAL]
Lời nói đầu: Từ lâu, các nhà di truyền học của Tổ Chức đã có mong muốn tìm hiểu khả năng sử dụng vật liệu di truyền của huyền vật để làm chậm lại hoặc loại bỏ sự lão hóa ở loài người. Vào ngày 2 tháng Năm năm 2010, Ts. Eugene Muller đã đưa ra một đề xuất thử nghiệm có nội dung như trên đối với SCP-6002. Mục tiêu ban đầu là cấy ghép vật liệu di truyền từ một loài huyền vật nhất định vào hệ gen của tinh tinh (Pan troglodytes) thông qua SCP-6002, và mục tiêu dài hạn là tiến hành cấy ghép tương tự đối với hệ gen loài người. Sau khi được Hội đồng O5 và Ủy ban Đạo đức xem xét kỹ lưỡng, việc thử nghiệm đã được chấp thuận vào ngày 29 tháng Năm năm 2010, với mã hiệu Dự án VĨNH HẰNG.
Biên bản thử nghiệm:
Đối tượng thử nghiệm: Hệ gen của người (Homo sapiens), tinh tinh (Pan troglodytes) và vĩ ngà (Duro scrofa) trên SCP-6002
Nghiên cứu viên giám sát: Ts. Eugene Muller
Nghiên cứu viên tham gia: Ts. Amara AchebeThử nghiệm 1: Thông tin di truyền điều khiển sự tái tạo tế bào của huyền vật được cô lập trên SCP-6002. Dù vậy, lượng vật chất thu được phân hủy quá nhanh ngay khi bị tách rời khỏi SCP-6002 so với khoảng thời gian cần thiết để chuyển chúng vào một hệ gen khác.
Ghi chú: Chắc là cần có biện pháp bảo quản nào đó? Ta sẽ thử cái đó tiếp theo. -Ts. Muller
Thử nghiệm 2: Thông tin di truyền điều khiển sự tái tạo tế bào của huyền vật được cô lập trên SCP-6002. Sau khi được tách rời khỏi dị thể, lượng vật chất này được ngâm trong một dung dịch chất bảo quản có chứa natri benzoat. Lượng vật liệu di truyền này nhanh chóng phân rã trong dung dịch.
Thử nghiệm 3: Thông tin di truyền điều khiển sự tái tạo tế bào của huyền vật được cô lập trên SCP-6002. Sau khi được tách rời khỏi dị thể, lượng vật chất này được ngâm trong một dung dịch chất bảo quản có chứa axit sorbic. Lượng vật liệu di truyền này nhanh chóng phân rã trong dung dịch.
Ghi chú: Đã gửi yêu cầu cấp phép tiến hành làm ổn định lượng vật chất sống này thông qua những phương pháp dị thường từng được sử dụng trong các thử nghiệm với 6002 trước đây. -Ts. Muller (Yêu cầu được chấp thuận ngày 7 tháng Sáu năm 2010)
Thử nghiệm 4: Thông tin di truyền điều khiển sự tái tạo tế bào của huyền vật được cô lập trên SCP-6002. Sau khi được tách rời khỏi dị thể, lượng vật chất này được ngâm trong một dung dịch chất bảo quản được tinh luyện từ nhiều sinh vật dị thường, bao gồm SCP-106, SCP-294-11, SCP-682, SCP-████ và SCP-████. Lượng vật liệu di truyền này nhanh chóng phân rã trong dung dịch.
Ghi chú: Tổ sư cha nhà nó chứ, cách này trước kia luôn hiệu quả mà. Tôi bắt đầu mất bình tĩnh rồi đây. Nếu chúng ta bôi loại dung dịch này lên trên cây trước khi tiến hành lấy mẫu thì sao nhỉ? -Ts. Muller
Thử nghiệm 5: Thông tin di truyền điều khiển sự tái tạo tế bào của huyền vật được cô lập trên SCP-6002. Trước khi được tách rời khỏi dị thể, lượng vật chất này được xử lý với dung dịch chất bảo quản trong Thử nghiệm 4. Sau khi tách rời khỏi dị thể, lượng vật chất này tồn tại được dưới dạng bền. Lượng vật chất di truyền này được tái tổ hợp với hệ gen của tinh tinh. Nhóm tinh tinh thử nghiệm được theo dõi trong 24 tháng.
Kết quả: Các cá thể tinh tinh được theo dõi không cho thấy dấu hiệu lão hóa rõ rệt nào.
Thử nghiệm 6: Vật chất di truyền của huyền vật bị loại bỏ khỏi hệ gen của tinh tinh trên SCP-6002. Nhóm tinh tinh nói trên tiếp tục được theo dõi trong 24 tháng.
Kết quả: Nhóm tinh tinh tiếp tục lão hóa với tốc độ thông thường như trước thử nghiệm. Vật chất di truyền được chiết tách trong Thử nghiệm 5 đã được cấp phép để thí nghiệm trên hệ gen người vào ngày 5 tháng Sáu năm 2014.
Thử nghiệm 7: Thông tin di truyền điều khiển sự tái tạo tế bào của huyền vật được cô lập trên SCP-6002. Trước khi được tách rời khỏi dị thể, lượng vật chất này được xử lý với dung dịch chất bảo quản trong Thử nghiệm 4 và 5. Lượng vật chất di truyền này được tái tổ hợp với hệ gen người.
Kết quả: SCP-6002 từ chối tiếp nhận lượng vật chất di truyền này. Lượng vật chất bị thải bỏ tan rã rất nhanh, dẫn tới tổn thương nhẹ trên cây. Hội đồng O5 đã đình chỉ việc thử nghiệm chéo giữa hệ gen người và huyền vật nhằm phòng ngừa hiểm họa xảy ra với hệ gen người.
Lời kết: Ba ngày sau khi Thử nghiệm 7 được tiến hành, Ts. Achebe quan sát thấy hiện tượng tương tự như sự thối rữa đang lây lan xung quanh vùng cành cây chứa hệ gen loài vĩ ngà, nơi Ts. Muller từng lấy mẫu. Ts. Achebe đã cắt bỏ vùng bị lây nhiễm. Ngày hôm sau, cô tiếp tục phát hiện thấy các mảng thối rữa xuất hiện xung quanh vùng bị cắt.
8 tháng Sáu năm 2014
Từ: Ts. Amara Achebe
Đến: Ts. Eugene MullerEugene, anh đã biết chuyện xảy ra trên cành vĩ ngà chưa? Hình như có một loại bệnh hại đang lây lan ở đó. Chiều nay chúng ta xem xét chuyện này được không?
Ts. A
Từ: Ts. Eugene Muller
Đến: Ts. Amara AchebeCô quan tâm làm gì. Tôi lo được hết. Làm việc của cô đi.
Ts. Eugene Muller, PhD
Giám đốc Điểm, Giải thưởng Albert Manfred, SCP-6002Từ: Ts. Amara Achebe
Đến: Ts. Eugene MullerÍt nhất thì anh có thể nói với tôi chuyện gì đang xảy ra được không? Ta có nên báo chuyện này với Hội đồng hay một trong các đội ngũ an ninh thông tin không? Tôi sợ rằng chúng ta sẽ phải mất cả cành cây đấy.
Ts. A
Từ: Ts. Eugene Muller
Đến: Ts. Amara AchebeCô nói đúng. 15 phút nữa lên nhé. Tôi lấy đồ đã.
Ts. Eugene Muller, PhD
Giám đốc Điểm, Giải thưởng Albert Manfred, SCP-6002Sau khi trèo lên SCP-6002 cùng Ts. Muller, Ts. Achebe đã không xuất hiện tại nơi làm việc trong suốt 72 giờ sau đó. Ts. Rose Wildcat, khi đó đang là thư ký của Ts. Muller, đã phát giác thấy điểm bất thường và báo với đội ngũ an ninh Điểm. Ts. Muller đã bị tra hỏi, tuy nhiên anh không thể đưa ra thông tin nào về hành tung của Ts. Achebe. Các nhân viên an ninh đã trèo lên SCP-6002, và sau mười bốn giờ tìm kiếm, họ đã phát hiện thi thể của Ts. Achebe trong trạng thái bị che phủ bởi cành lá mới mọc. Nguyên nhân tử vong là một phát đạn bắn vào phía sau đầu bằng súng ngắn tiêu chuẩn của Tổ Chức. Sự cố này đã ngay lập tức được báo cáo tới ban chỉ huy O5, và các nhân viên an ninh đã tới phòng ở của Ts. Muller để áp giải anh phục vụ việc tra hỏi sau đó. Khi họ đến nơi, Ts. Muller đã chết do treo cổ, nguyên nhân chết được cho là tự sát.
Do cô là nghiên cứu viên duy nhất còn sống sở hữu hiểu biết về siêu cấu trúc của SCP-6002 ở cấp độ điều hành, Ts. Wildcat đã được ban chỉ huy O5 chỉ định làm trưởng dự án SCP-6002 vào ngày hôm sau, và giao nhiệm vụ điều tra tình trạng thối rữa được Ts. Achebe báo cáo. Ts. Wildcat đã trèo lên cành cây chứa hệ gen của loài vĩ ngà, và phát hiện thấy cành cây này gần như đã thối rữa hoàn toàn. Theo như Ts. Wildcat nhìn nhận, sự thối rữa đã xảy ra trên cành cây trong vài tháng, tuy nhiên Ts. Muller đã che giấu điều này. Ts. Wildcat đã gửi yêu cầu và được cấp phép cắt bỏ hoàn toàn cành cây, và các đặc vụ của Tổ Chức đã triển khai giao thức lan truyền thông tin giả trước thời điểm tuyệt chủng dự kiến của loài vĩ ngà. Sự tuyệt chủng xảy ra trong vòng bảy tháng tiếp theo đúng như dự đoán. Ts. Wildcat đã giữ lại cành cây bị cắt để phục vụ mục đích nghiên cứu.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
mày chết đi mày chết đi mày chết đi mày chết đi mày chết đi
[TỆP: ARK_6002-B]
Tổng quan: SCP-6002-B là mã định danh được gán cho một căn bệnh truyền nhiễm di truyền dị thường được Ts. Rose Wildcat phát hiện lần đầu trên SCP-6002 vào ngày 12 tháng Sáu năm 2014. Căn bệnh này là hậu quả của sự tạp nhiễm chéo giữa vật chất di truyền dị thường và không dị thường trên thân cây do Ts. Eugene Muller gây ra thông qua Dự án VĨNH HẰNG.
Tác động: Trong điều kiện thông thường, SCP-6002-B sẽ từ từ lan rộng ra khắp SCP-6002 và lây nhiễm lên các phần thân cây khỏe mạnh. Khi lượng sinh khối bị nhiễm bệnh phân hủy ngay trên thân cây, những sinh vật mang vật chất di truyền tương đồng cũng sẽ trải qua quá trình phân hủy. Da và các cơ quan nội tạng của chúng sẽ thối rữa dần dần tương tự như ở người bệnh phong không được chữa trị. Khi toàn bộ hệ gen của một loài trên SCP-6002 đã bị phân hủy, ở các cá thể còn sống thuộc loài đó sẽ xảy ra sự phân rã đột ngột. Phần khung cơ thể của những sinh vật này sẽ “tách rời khỏi nhau” trong chốc lát ngay khi mô mềm của chúng tiêu biến.
Chữa trị: Hiện chưa tìm thấy phương pháp nào có thể ngăn chặn việc SCP-6002-B tiếp tục lây lan. Căn bệnh này có thể kháng lại cả những phương pháp điều trị bình thường và dị thường thông qua các vật thể SCP khác. Cắt bỏ các vùng bị lây nhiễm có thể nhìn thấy bằng mắt thường sẽ làm chậm quá trình lây lan, tuy nhiên không thể khiến quá trình này dừng lại hoàn toàn; cho tới nay, SCP-6002-B thường sẽ xuất hiện trở lại quanh vùng bị cắt trong vòng 10 ngày.
Phát hiện: Sau khi cắt bỏ một cành cây bị nhiễm bệnh khỏi SCP-6002, Ts. Wildcat đã phát hiện nhiều hóa chất dị thường bên trong cành cây này. Tất cả những hóa chất này đều từng được Ts. Muller sử dụng để điều chế một loại dung dịch bảo quản trong suốt khoảng thời gian Dự án VĨNH HẰNG diễn ra. Quyết định thiếu kiên nhẫn của Ts. Muller khi trực tiếp sử dụng loại dung dịch này trên thân cây của SCP-6002 khả năng cao đã dẫn đến việc những hóa chất này lây lan tới hệ gen của loài vĩ ngà, đồng thời SCP-6002-B được tạo ra.
Dù rằng việc ngăn chặn sự lây nhiễm có thể là khả thi nếu như sự việc được phát hiện từ trước, Ts. Muller đã che giấu sai lầm của mình khỏi các nghiên cứu viên khác trong ít nhất là ba năm, dẫn tới việc SCP-6002-B lây lan ra toàn bộ hệ gen của loài vĩ ngà và các phần khác trên thân cây chứa hệ gen của giới Aeternae.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
Tôi đã cắt cành cây đó xuống, rồi quay trở lại phòng mình và khóc suốt đêm. Và suốt buổi sáng hôm sau. Hai ngày liền tôi mất ăn mất ngủ. Amara… Em yêu, tôi xin lỗi, đáng lẽ ra tôi không nên để hắn đưa em lên đó. Đáng lẽ ra tôi không nên… Trời ơi…
Hồi chúng tôi còn bé, em gái tôi có một chú vĩ ngà nhồi bông. Mimi. Mỗi ngày sau khi đi học về, con bé đều mang về nhà những cuốn sách tranh và kể cho chúng tôi nghe về loài vĩ ngà. Giờ con bé còn chẳng nhớ được chút gì về điều đó cả…
[TỆP: ARK_timeline]
Dòng thời gian của Dự án 6002-ARK cho tới nay
12 tháng Sáu năm 2014: Cành cây chứa hệ gen loài vĩ ngà bị cắt khỏi SCP-6002. Loài vĩ ngà bắt đầu tuyệt chủng.
22 tháng Sáu năm 2014: Ts. Wildcat phát hiện sự lây nhiễm ở các khu vực khác trên SCP-6002. Căn bệnh truyền nhiễm này được cấp mã định danh là SCP-6002-B.
24 tháng Sáu năm 2014: SCP-6002-B được xác định là đã lây nhiễm trên toàn bộ chi Duro. Yêu cầu cắt bỏ toàn bộ hệ gen của chi này khỏi SCP-6002 đã được đệ trình và chấp thuận. Bắt đầu nghiên cứu các phương pháp khác để quản thúc SCP-6002-B.
9 tháng Bảy năm 2014: Bất kể những nỗ lực của Tổ Chức, thường dân đã phát hiện việc các sinh vật thuộc chi Duro đang dần chết đi. ĐĐNCĐ Nu-45 (“Kế Thừa Ngọn Gió”) đã được thành lập để quản lý các nỗ lực cấp thuốc lú hiện hành.
9 tháng Chín năm 2014: SCP-6002-B được xác định là đã lây nhiễm trên toàn bộ họ Pellicea. Do sự tuyệt chủng của toàn bộ các sinh vật thuộc cùng một họ sẽ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng an ninh thông tin hiện thời, việc cắt bỏ cành cây đã bị đình chỉ, với mục đích tìm kiếm những cách thức chữa trị mới.
12 tháng Mười năm 2014: Tác động của SCP-6002-B đối với những sinh vật còn sống thuộc họ Pellicea đã bị các nhà nghiên cứu khoa học thông thường phát hiện. ĐĐNCĐ Nu-45 không thể ngăn chặn kịp thời phát hiện này, và nhiều bài báo về chủ đề này đã được đăng tải trên các phương tiện truyền thông phổ biến.
29 tháng Mười hai năm 2014: Ban chỉ huy O5 ra lệnh cắt bỏ cành cây chứa hệ gen của họ Pellicea. Ts. Wildcat trì hoãn thực hiện nhiệm vụ trong vòng ba ngày; cô đã bị cảnh cáo vì hành động này.
18 tháng Hai năm 2015: Các thành viên của Liên minh Huyền bí Toàn cầu (GOC) liên lạc với Tổ Chức nhằm mục đích yêu cầu hợp tác nghiên cứu hiện tượng tuyệt chủng đột ngột hàng loạt này; hiện tượng này đã được phía GOC cho là dị thường. Tổ Chức đã phủ nhận toàn bộ các mối liên quan với sự việc này và từ chối hợp tác.
4 tháng Sáu năm 2015: SCP-6002-B được xác định là đã lây nhiễm vào 88% lượng vật chất di truyền của bộ Rectus trên SCP-6002, tương đương với khoảng 40,000 loài.
19 tháng Chín năm 2015: Đợt tấn công đầu tiên của GOC vào Điểm Quản thúc Sinh học-6002. Cuộc tấn công đã bị đẩy lùi, và nhiều đặc vụ đã bị bắt giữ để thẩm vấn. Thẩm vấn cho thấy GOC đã biết đến SCP-6002 và tin rằng Tổ Chức đã thất bại trong việc xử lý cuộc khủng hoảng hiện thời.
14 tháng Một năm 2016: Các trang báo bao gồm New York Times, Washington Post và Los Angeles Times đã đăng tải những báo cáo về SCP-6002-B của các phóng viên điều tra, cho thấy hiểu biết về nguồn gốc dị thường của SCP-6002-B. Ban chỉ huy O5 tuyên bố viễn cảnh Cấp-BK “Mặt Nạ Vỡ” mức trung bình.
19 tháng Một năm 2016: Đợt tấn công thứ hai của GOC vào Điểm Quản thúc Sinh học-6002. Các đặc vụ của GOC đã hợp tác với thành viên Xà Thủ, Hỗn Kháng và Quỹ Từ thiện Manna. Cuộc tấn công đã bị đẩy lùi.
12 tháng Ba năm 2016: Đợt tấn công thứ ba của GOC vào Điểm Quản thúc Sinh học-6002. Các đặc vụ của GOC đã hợp tác với nhiều Thế lực Đáng lưu tâm và Quân đội Hoa Kỳ. Quân tấn công đã chiếm được toàn bộ Điểm sau 17 giờ. Ts. Wildcat và tất cả nhân sự dưới quyền cô được cho là đã bị bắt giữ hoặc đã hy sinh. Ban chỉ huy O5 tuyên bố viễn cảnh Cấp-BK “Mặt Nạ Vỡ” mức cao.
2 tháng Tư năm 2016: ĐĐNCĐ Nu-7 (“Giáng Búa") và ĐĐNCĐ Alpha-1 (“Xích Hữu Thủ”) tấn công nhằm tái chiếm Điểm Quản thúc Sinh học-6002. Chiến dịch thất bại.
23 tháng Mười năm 2016: Tác động của SCP-6002-B có thể được quan sát trên các sinh vật còn sống thuộc nhiều ngành khác nhau của giới Aeternae. Sự lây nhiễm được cho là đã lây lan ra toàn bộ hệ gen của giới Aeternae trên SCP-6002.
9 tháng Bảy năm 2017: Ts. Wildcat nối lại liên lạc với Tổ Chức từ bên trong SCP-6002. Cô tiết lộ rằng mình đã trốn trong tán lá của dị thể được 16 tháng, kể từ thời điểm Điểm Quản thúc Sinh học-6002 bị chiếm đóng. Ts. Wildcat đã cung cấp những thông tin tình báo then chốt liên quan tới hoạt động của GOC tại Điểm.
13 tháng Tám năm 2017: Dựa trên thông tin tình báo của Ts. Wildcat, ĐĐNCĐ Nu-7 và ĐĐNCĐ Alpha-1 đã tái chiếm Điểm Quản thúc Sinh học-6002.
14 tháng Tám năm 2017: Ts. Wildcat ủng hộ việc cắt bỏ toàn bộ cành cây chứa hệ gen của giới Aeternae khỏi SCP-6002, với lý do là hành động này sẽ loại bỏ hoàn toàn SCP-6002-B trước khi nó tiếp tục lây nhiễm. Ban chỉ huy O5 đồng ý cắt bỏ cành cây vào ngày 18 tháng Tám năm 2017.
19 tháng Tám năm 2017: 1.3 triệu loài thuộc giới Aeternae bắt đầu tuyệt chủng hàng loạt. Ts. Wildcat đã làm việc với các thành viên của những đội ngũ nghiên cứu sinh thái học thuộc về cả công chúng và Tổ Chức để tái cấu trúc các hệ sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng bằng những phương pháp dị thường. Trong khoảng thời gian này, các hoạt động trên đã được nhận diện rộng rãi là những nỗ lực quản thúc của Tổ Chức, dẫn tới việc các cuộc tấn công hướng đến Tổ Chức xảy ra thường xuyên.
29 tháng Bảy năm 2020: Các cá thể sinh vật cuối cùng thuộc giới Aeternae được cho là đã chết. Dự án 6002-ARK chuyển hướng sang các nỗ lực lan truyền thông tin giả và chỉnh sửa ký ức quy mô lớn. Các chiến thuật được triển khai bao gồm: Cấp thuốc lú Cấp-X toàn cầu thông qua gió và chu trình nước; tận dụng truyền thông, các cơ quan chính phủ và các cơ sở đào tạo bậc cao; xóa bỏ toàn bộ thông tin về các loài huyền vật có tầm ảnh hưởng nhỏ; ngụy tạo thông tin về các loài huyền vật có tầm ảnh hưởng lớn thông qua các hiện tượng lịch sử và xã hội khác, bao gồm các tác phẩm văn học hư cấu nổi tiếng, ghi chép về hóa thạch, các truyền thống văn hóa và truyện kể dân gian, cũng như các thuyết âm mưu.
4 tháng Chín năm 2020: 75% dân số thế giới đã hoàn toàn quên đi sự tồn tại của huyền vật, hoặc bị thuyết phục rằng chúng là những sinh vật hư cấu. Số lượng những đợt tấn công hướng tới các Điểm của Tổ Chức đã giảm xuống rõ rệt.
Tháng Tư năm 24, 2021: ĐĐNCĐ Nu-45 tuyên bố đã xóa bỏ mọi hiểu biết về giới sinh vật Aeternae khỏi ghi chép lịch sử và trí nhớ tập thể của loài người. Các cuộc tấn công hướng tới các Điểm của Tổ Chức ngừng lại hoàn toàn. Tấm Màn được coi là nguyên vẹn ở mức độ chấp nhận được.
Hết ghi chép
Phụ lục: Vào ngày 18 tháng Năm năm 2021, SCP-6002-B đã được phát hiện trên thân cây chính của SCP-6002, dù rằng vật chất di truyền của giới Aeternae đã bị cắt khỏi thân cây. Sự lây nhiễm nói trên được dự báo là sẽ lây lan tới các giới sinh vật khác trong 12 tháng. Ban chỉ huy O5 đã yêu cầu Ts. Wildcat nghiên cứu về việc cắt bỏ trước một số phần của SCP-6002 để ngăn chặn sự lây nhiễm, đồng thời duy trì lực lượng lan truyền thông tin giả thuộc Dự án 6002-ARK.
Phụ lục 2: Ts. Rose Wildcat hiện đang mất tích. Bất cứ ai có thông tin liên quan tới hành tung của Ts. Wildcat cần báo cáo lại ngay.
.
.
.
.
[Bình luận mới] Wildcat, Ts. Rose M.:
Khi Tổ Chức phát hiện Cổ Thụ lần đầu, các nghiên cứu viên đã ghi chép lại rằng có những âm thanh kì lạ bủa vây quanh họ. Tiếng hú, tiếng lá kêu xào xạc, tiếng thét. Nhưng dân tộc chúng tôi gọi những âm thanh ấy bằng một cái tên khác hoàn toàn. Đó là Cổ Thụ đang trò chuyện với chúng tôi.
Nó trò chuyện bằng giọng nói của mọi sinh vật trên đời. Đôi khi là giọng nói của sói hoang, nghênh ngang vì những con mồi vừa săn được. Đôi khi là lời mời gọi bạn tình của những chú chim nhỏ bé nhất ở đâu đó trong rừng sâu hay trên một miền đất nào xa lạ. Vào những đêm linh thiêng, hằng hà sa số những giọng nói sẽ cất lên cùng nhau, ca vang bài ca của rừng, của biển, của trời. Dân tộc chúng tôi từng thuộc lòng những bài ca ấy.
Và rồi, Tổ Chức đến. Khi chúng đến nơi, chúng tôi từng hy vọng. Chúng tôi từng chứng kiến Cổ Thụ oằn mình khi những thành phố của con người trỗi dậy. Chúng tôi mong mỏi Tổ Chức giúp đỡ mình sửa chữa lại điều ấy. Vậy nhưng, chúng tôi bị dồn ép đến đường cùng, bị tàn sát, bị xóa sổ khỏi Cổ Thụ và vùng đất bao quanh nó. Tổ Chức tin rằng chúng đã tiêu diệt được tất cả chúng tôi. Chúng đã sai.
Một nhóm nhỏ những già làng của bộ lạc tôi đã thoát thân thành công khỏi cuộc thảm sát. Họ quyết định tách rời nhau, chạy trốn tới những hang cùng ngõ hẻm trên Trái Đất này để bảo vệ những gì họ biết về Cổ Thụ. Có những người đã bị bắt giữ và giết hại trong suốt nhiều năm sau đó. Những người khác thì sống sót và thành gia lập thất. Cụ bà của tôi là một trong số họ.
Vào ngày tôi lên mười ba tuổi, mẹ và bà tôi đã đưa tôi xuống hầm nhà và kể tôi nghe về Cổ Thụ. Họ cho tôi xem những ghi chép kín đặc chữ của cụ tôi, những ghi chép tả đi tả lại mùi hương và cảm giác khi chạm vào cành lá và âm thanh của những bài hát để cụ chẳng thể nào quên chúng đi. Những ghi chép kể tôi nghe về những kẻ đã cướp Cổ Thụ khỏi chúng tôi. Ngày hôm ấy, Cổ Thụ trở thành một phần con người tôi, như với bao lớp người dân tộc tôi từ thuở xa xưa đến lúc bấy giờ.
Tôi quyết định học hành, rồi đi vào làm việc. Suốt mười năm, tôi đã học tập và phấn đấu để trở thành một trong những nhà khoa học tài năng nhất thuộc lĩnh vực của mình, chờ đợi một cuộc gọi mà tôi hy vọng. Rồi cuộc gọi ấy cũng đến. Tôi đã được tuyển dụng làm nhân sự của Tổ Chức SCP năm tôi 23 tuổi, và được phân công thực hiện một dự án mới liên quan tới việc nghiên cứu Cổ Thụ.
Công việc rất cực nhọc và không cho phép tôi có sai sót nào. Niềm an ủi duy nhất của tôi là được ở gần bên Cổ Thụ. Tôi ăn nghỉ, làm việc và sinh sống trên những cành cây. Khi Tổ Chức bắt đầu đem Cổ Thụ ra làm thử nghiệm, tôi đã dằn vặt bản thân rất nhiều về việc mình phải làm gì. Rốt cuộc tôi vẫn không thể nào chịu đựng nổi, và sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình để sửa chữa những tổn hại mà chúng gây ra. Tôi bị phát hiện, đương nhiên rồi, và suýt nữa thì đã chết. Tôi được ở lại Điểm, phải gồng mình lên chịu đựng việc bị Muller sỉ nhục và quấy rối hàng ngày, chờ đợi thời gian trôi đi. Amara đáng yêu của tôi đã làm hết sức có thể để an ủi tôi trong bí mật.
Tôi không được phép trèo lên Cổ Thụ thêm lần nào nữa. Nhưng, kể cả từ đằng xa, tôi cũng có thể nghe thấy âm thanh gì đó ẩn sâu trong những lời ca ấy. Một âm thanh trầm đục đầy vẻ đe dọa, nghe như một con quái thú bị dồn đến đường cùng. Tôi biết khi ấy Muller đã bắt đầu che giấu những sai lầm của hắn ta, và những âm thanh tôi nghe chính là tiếng Cổ Thụ khóc than khi sự lụi tàn lan dần qua những cành lá.
Sau khi Amara… Sau khi tôi trở thành giám đốc điểm, cuối cùng tôi cũng có thể leo lên Cổ Thụ và tìm ra ngọn nguồn nỗi đau của nó. Khi làm được điều ấy, tôi đã hiểu mình cố gắng biết bao lâu nay là vì cái gì. Nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ Cổ Thụ chống chọi lại những nỗi kinh hoàng mà lũ xâm lăng đã bày ra. Tôi đã vận dụng tất cả những kỹ năng, kiến thức của mình, tất cả những gì tôi có. Khi Tổ Chức gục ngã và mất quyền kiểm soát Cổ Thụ, tôi đã trốn vào trong những cành lá, ẩn mình sâu bên trong. Cổ Thụ đã che chở tôi. Tôi sống qua ngày bằng những cành lá rụng và tiếp tục công việc của mình, chẳng bao giờ quên được nỗi đau ẩn sau những lời ca ấy. Nỗi đau ấy mỗi ngày một lớn thêm. Tôi đã bị thuyết phục rằng chỉ có một cách duy nhất để cứu lấy Cổ Thụ: phải cắt bỏ những phần bị lây nhiễm, bất kể cái giá phải trả là gì. Nhưng đáng hối hận thay, tôi cần sự hỗ trợ của những kẻ đàn áp chúng tôi để làm được điều đó. Vậy nên tôi đã giẫm lên vết xe đổ của chính mình, và giúp đỡ Tổ Chức chiếm lại Cổ Thụ. Rồi tôi đã cắt đi tất cả những mảnh thân cây bị lây nhiễm mà tôi tìm thấy, khoét sâu vào trong thớ gỗ cho tới khi tôi chắc chắn rằng chẳng còn chút cành lá lụi tàn nào. Tôi biết hiểm họa của cách làm này, nhưng tôi cũng biết rằng mình đã cứu lấy Cổ Thụ.
Tuần trước, tôi phát hiện thấy mình đã sai. Những vùng hư hỏng trên thân cây vẫn còn. Tôi đã giết hại hàng ngàn tỷ sinh vật trên thế giới này, chẳng để đổi lấy điều gì cả.
Có lẽ, tôi có thể chịu được điều đó. Nhưng tuần này, khi tôi chạy trốn vào bên trong Cổ Thụ trước khi chúng ra lệnh cho tôi tiếp tục cắt gọt thân cây, tôi đã nhận ra một sự thật mà bản thân tôi không thể nào đối mặt.
Những cành cây lặng ngắt. Cổ Thụ không còn cất lời ca cho tôi nghe nữa.
Vúluandsham… Mẹ… Amara… Hãy tha thứ cho tôi.
.
.
.
.
THÔNG BÁO TỪ PHẦN MỀM GIÁM SÁT NHẬN THỨC: KHÔNG PHÁT HIỆN THẤY DẤU HIỆU SỰ SỐNG. MẤT TÍN HIỆU SINH TRẮC HỌC. VÌ LÝ DO AN NINH, TẬP TIN NÀY SẼ TỰ ĐỘNG ĐÓNG LẠI.
Trích dẫn:
"SCP-6002" bởi bigslothonmyface, từ Wiki SCP.
Nguồn: http://www.scp-wiki.wikidot.com/scp-6002.Dịch bởi Irina Bougainvillea, từ Wiki SCP-VN.
Nguồn bản dịch: http://scp-vn.wikidot.com/scp-6002.Xuất bản dưới giấy phép CC-BY-SA
Để biết thêm thông tin, xem Hướng Dẫn Giấy Phép.
Hiện Giấy Phép
Tên tệp: mole_embed_image.jpeg
Tiêu đề ảnh: Mole embed image
Người tạo: Ảnh gốc thuộc về Xpda. Các chỉnh sửa được thực hiện bởi tác giả.
Giấy phép: CC BY-SA 4.0
Nguồn ảnh: Link
Tên tệp: figure-1.jpeg
Tiêu đề ảnh: Biểu đồ 1
Người tạo: Ảnh gốc thuộc về Marco Verch. Các chỉnh sửa được thực hiện bởi tác giả và dịch giả.
Giấy phép: CC BY 2.0
Nguồn ảnh: Link
Tên tệp: swamp_flyer.jpeg
Tiêu đề ảnh: Swamp flyer
Người tạo: Ảnh gốc thuộc về NPS Natural Resources. Các chỉnh sửa được thực hiện bởi tác giả và những người đóng góp cho bài viết.
Giấy phép: Public Domain Mark 1.0
Nguồn ảnh: Link
Tên tệp: hatzegopteryx.jpeg
Tiêu đề ảnh: Hatzegopteryx
Người tạo: Mark Witton
Giấy phép: CC BY-SA 4.0
Nguồn ảnh: Link
Tên tệp: chinese_dragon.jpeg
Tiêu đề ảnh: Chinese dragon
Người tạo: GoShow
Giấy phép: CC BY-SA 3.0
Nguồn ảnh: Link
Để biết thêm thông tin về nội dung trên wiki, ghé thăm Danh Sách Giấy Phép.